Sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ta đã mạnh hơn, cao hơn, tươi sáng hơn hẳn trước đây.
Tuy nhiên bước vào thời kỳ phát triển mới, đất nước ta vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức đó là: Trong lãnh đạo, quản lý, trong tổ chức thực hiện chúng ta vẫn còn không ít bất cập, yếu kém, khuyết điểm sai lầm; vẫn còn không ít những vấn đề quan trọng chưa được giải quyết triệt để. Một số điểm nghẽn, điểm nóng chưa được tháo gỡ, trong khi những nhiệm vụ yêu cầu mới, những mâu thuẫn, thách thức mới, một số vấn đề lớn trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục phát sinh.
Trong khi đó, các thế lực thù địch vẫn tăng cường thực hiện âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình”, “cách mạng sắc màu” gắn với bạo loạn lật đổ, cùng với những loại giặc “nội xâm”: Tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống nhất là những biểu hiện tha hoá quyền lực, “lợi ích nhóm”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, quan liêu, tham nhũng lãng phí vẫn chưa được đẩy lùi, có mặt có chiều hướng gia tăng có nguy cơ đe doạ vai trò lãnh đạo và sứ mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ, vận mệnh của đất nước, dân tộc.
Biết nhìn lại quá khứ là cách tốt nhất đi tới tương lai! Hãy biết tổng kết sâu sắc lịch sử, là hành trang, là động lực, ánh sáng soi đường cho chúng ta tiến đến tương lai tươi sáng!
Là hoạt động đi trước, đi cùng và đi sau mỗi nhiệm vụ cách mạng, mỗi chặng đường của phát triển của đất nước, để chuẩn bị hành trang, để tạo động lực cho hoạt động đổi mới sáng tạo của mình trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, hơn lúc nào hết công tác tư tưởng cần nhìn lại hoạt động của mình trong những năm đầu, của sự nghiệp đổi mới. Chúng ta còn nhớ: “mười năm trước khi Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện, nước ta đang trong tình trạng trầm trọng nhất của khủng hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt, đất nước bị bao vây về kinh tế, đời sống của nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin giảm sút”.(1)
Lịch sử công tác tư tưởng của Đảng ta trong này đã ghi đậm dấu ấn trong một số hoạt động chuẩn bị cơ sở lý luận thực tiễn để Đại hội VI, Đảng ta đi tới quyết định lịch sử: Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đó, là:
- Các hoạt động nghiên cứu lý luận tổng kết thực tiễn chuẩn bị cho Ban chấp hành Trung ương ra nghị quyết về một lĩnh vực rất nóng bỏng và rối ren đó là vấn đề giá, lương, tiền. Qúa trình hình thành nghị quyết này, tư duy lý luận về kinh tế của Đảng ta đã có bước phát triển rất quan trọng. Trước Hội nghị Trung ương 8 thì trong các nghị quyết 3, 4, 5, 6, 7 tình hình khó khăn yếu kém của kinh tế xã hội là do những yếu kém sai lầm trong tổ chức thực hiện nghị quyết. Đến nghị quyết Trung ương 8, Đảng ta đã chỉ rõ: “Các nghị quyết chỉ thị của Đảng và Nhà nước về vấn đề phân phối lưu thông còn những mặt hạn chế rất cơ bản: vẫn giải quyết các vấn đề giá, lương và các vấn đề kinh tế khác, trên cơ sở tiếp tục duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp”.(2) Do nhận thức đúng một trong những nguyên nhân cơ bản đẩy nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng nên Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khoá V đã đi tới một quyết định: Thông qua “những chủ trương và biện pháp lớn nhằm xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa trong đó vấn đề giá, lương, tiền là yêu cầu cấp bách, là khâu đột phá”.(3) Nghị quyết Trung ương 8 “là kết quả rút ra từ thực tiễn và kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua, thể hiện sự chuyển hướng mạnh mẽ, sâu sắc trong chủ trương chính sách của Đảng ta không những về giá cả tiền lương mà cả về thương nghiệp, tài chính, tiền tệ, về cơ chế kế hoạch hoá và quản lý kinh tế nhằm triệt để xoá bỏ quan liêu, bao cấp chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN”.(4) “Tư tưởng chỉ đạo chiến lược là chuyển từ tập trung quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa là chuyển một bước từ điều khiển nền kinh tế bằng phương pháp chủ quan, mệnh lệnh sang điều khiển chủ yếu thông qua việc vận dụng các quy luật kinh tế của CNXH và quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá XHCN có kế hoạch”.(5)
- Sự kiện nổi bật thứ hai là phát huy mạnh mẽ những kết quả trong đổi mới tư duy lý luận kinh tế của Nghị quyết TW8 tiến hành tổng kết thực tiễn 10 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IV và V để xây dựng báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW khoá V trình Đại hội VI có hai hoạt động nổi bật diễn ra trong năm 1986 đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong tư duy lý luận của Đảng ta đối với đánh giá tình hình, nhận thức về cách mạng XHCN trong chặng đường đầu tiên:
- Tại Hội nghị Trung ương 10 thảo luận dự thảo báo cáo chính trị để trình Đại hội VI. Trên cơ sở có rất nhiều ý kiến băn khoăn, chưa nhất trí với đánh giá tình hình cả thành tựu và những khuyết điểm sai lầm và nhất là Dự thảo chưa đưa ra được những giải pháp lớn để kinh tế xã hội ra khỏi cuộc khủng hoảng đang rất trầm trọng. Kết thúc Hội nghị Trung ương 10, Đảng ta nhận thức sáng tỏ những đặc điểm nổi bật của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH và trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ đó là chúng ta đi thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa từ một nền tiểu sản xuất là phổ biến với nhiều thành phần kinh tế; tỷ suất hàng hoá còn rất thấp, một số vùng còn mang tính chất tự cấp tự túc của nền kinh tế tự nhiên. Một số cơ sở vật chất – kỹ thuật được xây dựng trước đây, trải qua 30 năm chiến tranh bị tàn phá rất nặng nề, tình trạng mất cân đối về lương thực, thực phẩm, năng lượng nguyên liệu, vật tư, cấu trúc hạ tầng đều gay gắt và nghiêm trọng… cho nên những khuyết điểm sai lầm chủ quan của chúng ta khiến cho tình hình vốn đã rất khó khăn lại càng khó khăn phức tạp thêm”.(6) Từ nhận thức trên, Đảng ta đi tới một nhận thức lý luận và một quyết tâm chính trị: “Qúa trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi chúng ta phải đổi mới trên nhiều mặt: đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, đổi mới phong cách làm việc, đổi mới tổ chức, cán bộ.”… “Sự đổi mới đó dựa trên những bài học được đúc kết từ những thắng lợi đã đạt được và những khuyết điểm sai lầm mà chúng ta đã phạm trong 11 năm qua khi cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.(7)) Kết luận Hội nghị Trung ương 10, Đảng ta nêu lên 3 bài học kinh nghiệm, đây là cơ sở để xây dựng đường lối đổi mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc: Ba bài học kinh nghiệm đó là:
+ “Sức mạnh của một nước, của cách mạng chính là ở nhân dân. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải tin tưởng ở nhân dân, mọi chủ trương chính sách đều phải lấy dân làm gốc… Chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và trình độ của dân, đánh giá chính sách của chúng ta đúng hay sai, tốt hay xấu là phải nhìn ở chỗ đa số quần chúng nhân dân có phấn khởi, đồng tính, hăng hái thực hiện hay không? Sản xuất có được đẩy mạnh, kinh tế có phát triển, đời sống có ổn định và từng bước được cải thiện, quốc phòng an ninh có vững mạnh hay không? Ngay cả trong trường hợp chính sách đúng rồi mà nhân dân chưa hiểu, chưa đồng tình thì cũng không làm được, khi đó phải ra sức giáo dục giải thích cho dân, biết chờ đợi dân có khi phải điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tế và với trình độ của quần chúng. Phải giáo dục, làm cho dân hiểu, dân tin ở Đảng, tạo ra phong trào cách mạng rộng lớn, sôi nổi của nhân dân, tự nguyện, hăng hái phấn đấu xây dựng CNXH”…
+ Trong công tác lãnh đạo, phải tôn trọng quy luật khách quan, vận dụng nó vào thực tế. Tổng bí thư Lê Duẩn đã nói: “Làm chủ là nắm vững quy luật và hành động theo quy luật”. Cưỡng lại quy luật thì chẳng những không làm chủ được mà còn bị nó quật lại. Hơn 10 năm qua đã cho thấy rõ muốn chuyển biến tình hình kinh tế xã hội, trước hết phải thay đổi nhận thức thay đổi nhận thức thay đổi tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế. Chủ nghĩa Mác-Lênin nêu lên những nguyên lý chung, có tính phổ biến. Song vận dụng những nguyên lý đó vào hoàn cảnh Việt Nam như thế nào là việc của chúng ta phải làm, không ai có thể làm thay chúng ta được. Muốn vậy phải xuất phát từ thực tế Việt Nam, với những con người Việt Nam cụ thể, với điều kiện phát triển cụ thể của lịch sử, của nền kinh tế, của điều kiện xã hội, của những truyền thống Việt Nam. Hệ thống các quy luật khách quan đang phát huy tác dụng vừa tác động lẫn nhau, vừa bổ sung cho nhau tạo thành một thể thống nhất, trong đó các quy luật đặc thù của CNXH giữ vai trò chủ đạo. Chúng ta phải vận dụng đúng đắn, trải qua sự kiểm nghiệm của thực tế mà điều chỉnh các chính sách nhằm vận dụng ngày càng nhuần nhuyễn, đúng đắn hơn hệ thống các quy luật đó, không chỉ vận dụng riêng một quy luật nào. Tiêu chuẩn đánh giá trình độ và khả năng vận dụng đúng đắn hệ thống quy luật, thông qua các chính sách của chúng ta là sản xuất phải phát triển, giao lưu thông suốt, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân phải ổn định và từng bước cải thiện, xã hội phải lành mạnh, văn minh, các giá trị đạo đức và tinh thần ngày càng được nâng cao, quốc phòng an ninh vững mạnh”….
+ “Để đảm bảo huy động được đầy đủ sức mạnh của nhân dân trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đảm bảo cho việc tự giác vận dụng các quy luật, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tác dụng tích cực của chúng nhất thiết phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo phải nắm vững hệ thống quy luật tác động lên xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hệ thống quy luật đó, sự lãnh đạo của Đảng phải nhằm phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, hướng họ vào việc tự giác hành động theo quy luật. Sức mạnh của quy luật là vô địch…Làm đúng quy luật chính là hợp với lòng dân, hợp với xu thế đi lên của đất nước và của thời đại… Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cần tăng cường đoàn kết trong Đảng trên cơ sở của chủ nghĩa Mác-Lênin và Đường lối chính sách của Đảng.Trước tình hình khó khăn phức tạp có những ý kiến khác nhau là lẽ bình thường. Chúng ta cần chân thành thẳng thắn, có thái độ xây dựng trong khi thảo luận để tìm ra chân lý nhằm đạt tới nhất trí cao, hết sức tránh vội vàng quy chụp. Tình hình hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải có bước đổi mới trong phong cách làm việc theo tác phong của Bác Hồ, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ. Phải giữ vững tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng cũng như trong lãnh đạo kinh tế - xã hội… Chúng ta đang đứng trước tình hình đặc biệt, bên cạnh những thuận lợi có rất nhiều khó khăn phải vượt qua. Để đảm bảo hoàn thành tốt hai nhiệm vụ chiến lược trong tình hình mới việc củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định”.(8) Thấu suốt 3 bài học kinh nghiệm lớn trên đây để Trung ương Đảng khóa V sửa chữa, bổ sung hoàn thiện những nội dung cơ bản của Báo cáo chính trị trình Hội nghị Trung ương 11, thông qua lần cuối.
- Từ ngày 25 đến ngày 30 tháng 8 năm 1986 với tinh thần thẳng thắn và cởi mở các đồng chí Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã thảo luận, đi tới nhất trí về ba vấn đề cơ bản quan trọng thuộc quan điểm kinh tế. Tại Hội nghị này trên cơ sở thấu suốt ba bài học kinh nghiệm lớn trên, nhưng Bộ Chính trị không bàn toàn diện các chủ trương phát triển kinh tế trong báo cáo chính trị mà tập trung thảo luận một số vấn đề quan trọng nhất về quan điểm kinh tế nhằm làm rõ một bước tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta về xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và lãnh đạo kinh tế nói riêng. Tại Hội nghị này Bộ Chính trị đã ra kết luận về ba quan điểm rất cơ bản và quan trọng về kinh tế sau:
1- Về cơ cấu kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ: Phải lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, việc phát triển công nghiệp nặng trong lúc này cần làm có mức độ vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
2- Về cải tạo XHCN và củng cố quan hệ sản xuất mới: Nhất thiết phải tuân theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH, lực lượng sản xuất của ta còn nhỏ yếu, trình độ xã hội hoá sản xuất còn thấp, lại phát triển không đều. Vì vậy trong quá trình cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới phải lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước và đối với từng vùng, từng lĩnh vực. Phải đi qua những bước trung gian, quá độ, từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình rồi tiến lên quy mô lớn. Cải tạo XHCN là một bộ phận trọng yếu của cuộc đấu tranh nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa CNXH và CNTB trong thời kỳ quá độ. Đặc trưng cần nắm vững là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần.
Cải tạo XHCN phải nhằm xây dựng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng vững mạnh, làm cho kinh tế XHCN chiếm ưu thế và phát huy tinh hơn hẳn thông qua việc không ngừng nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế và mức sống của người lao động, đồng thời thừa nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá và một bộ phận kinh tế tư bản tư nhân ở mức độ nhất định, trong một thời gian tương đối dài, coi đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động. Phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế đó vì lợi ích của chủ nghĩa xã hội. Cải tạo XHCN không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu mà là giải quyết vấn đề quan hệ sản xuất một cách đồng bộ cả trên ba mặt: chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối. Cải tạo bao hàm nội dung chủ yếu là xây dựng nhằm từng bước làm cho ba mặt đó thực sự mang bản chất XHCN. Cải tạo XHCN là một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất vì vậy không thể chỉ làm trong một lần hay trong thời gian ngắn là xong. Theo tinh thần đó, Đảng ta coi đẩy mạnh cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục suốt thời kỳ quá độ lên CNXH với những hình thức và bước đi thích hợp; làm cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở mỗi quá trình phát triển:
- Về cơ chế quản lý kinh tế: Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế (bao gồm cả cơ cấu ngành, vùng, kỹ thuật… và cơ cấu xã hội của nền kinh tế tức là cơ cấu thành phần kinh tế) phải gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Hai mặt này liên quan chặt chẽ với nhau và vừa thúc đẩy vừa rằng buộc lẫn nhau và đều phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đồng thời gắn liền với việc mở rộng và củng cố quan hệ sản xuất: Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý đã được khẳng định là phải xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang hạch toán kinh tế, kinh doanh XHCN. Xoá bỏ cơ chế này là xoá bỏ quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu; xoá bỏ cơ chế bao cấp qua chế độ phân phối và cấp phát không tính đến hiệu quả kinh tế, không gắn trách nhiệm với lợi ích vật chất với hiệu quả sử dụng tiền vốn, tài sản, vật tư, lao động; Tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động. Xoá bỏ hệ thống tổ chức bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian với những cán bộ quản lý yếu, kém năng động không thông thạo kinh doanh, phong cách quản lý quan liêu cửa quyền không có trách nhiệm rõ ràng, tạo ra cấu trúc thượng tầng quá lớn không tương xứng với cơ sở hạ tầng đang còn nhỏ bé. Đổi mới kế hoạch hoá trên sở sở vận dụng đúng đắn hệ thống các quy luật kinh tế, phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật đặc thù của CNXH, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật vận động của quan hệ hàng hoá – tiền tệ; chuyển sang các phương pháp kinh tế là chủ yếu, trong đó kế hoạch hoá thực sự trở thành trung tâm của hệ thống quản lý. Đảm bảo cho các đơn vị kinh tế XHCN có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, thực hiện đúng hạch toán kinh tế, tự tạo vốn và hoàn vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình, phấn đấu sản xuất kinh doanh có lãi. Mức thu nhập của tập thể và của người lao động được xác định căn cứ vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Chấn chỉnh kiện toàn bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý theo yêu cầu của cơ chế mới, trên cơ sở phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính – kinh tế của cơ quan nhà nước và chức năng sản xuất kinh doanh của tổ chức, đơn vị kinh tế. Phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Toàn bộ hệ thống quản lý hành chính nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Đổi mới cơ chế quản lý theo phương hướng trên là một cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng sâu sắc. Muốn thực hiện cuộc cải cách này, nhất thiết phải đổi mới tư duy kinh tế, trước hết là đổi mới tư duy của các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Tư duy kinh tế mới phải dựa trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn hệ thống quy luật đang tồn tại và vận động một cách khách quan trong điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của chặng đường đầu tiên; trong đó các quy luật đặc thù của CNXH giữ vị trí chủ đạo. Đồng thời phải khắc phục những quan niệm cũ kỹ giản đơn, cứng nhắc về chủ nghĩa xã hội, những thành kiến đối với quan hệ hàng hoá – tiền tệ và thị trường. Khắc phục tư tưởng chủ quan thoát ly thực tế xa rời quần chúng, vừa bảo thủ, vừa nóng vội trong công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế.
Kết luận của Bộ chính trị về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế trên đây là cơ sở có ý nghĩa quyết định để hoàn chỉnh báo cáo chính trị trình và được Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành Trung ương thông qua thành báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá V tại Đại hội VI.
Hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn 10 năm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đã chuẩn bị cơ sở khoa học và thực hiện cho Đảng ta, tại Đại hội VI (12/1986) khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đầu của sự nghiệp đổi mới công tác tư tưởng có những hoạt động chủ yếu, nổi bật sau đây:
- Các văn kiện của Đại hội VI thể hiện bước đầu đổi mới tư duy của Đảng. Báo cáo chính trị tại Đại hội VI đã xác định: “Đổi mới tư duy và nâng cao năng lực phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng”.(9) Do đó: “Hoạt động học tập nghiên cứu quán triệt các văn kiện Đại hội VI được gắn chặt với học tập quán triệt chuyên đề Đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”. Nghiên cứu chuyên đề này đội ngũ cán bộ; đảng viên được quán triệt sâu sắc quan niệm về tư duy, nội dung tư duy, phương pháp tư duy, sự cần thiết phải đổi mới tư duy, nhưng điều kiện để cán bộ, đảng viên có thể đổi mới được tư duy… và điều rất quan trọng là trên cơ sở nhận thức sâu sắc vấn đề đổi mới tư duy mà cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu sâu sắc rằng: Đường lối Đại hội VI của Đảng vừa hợp quy luật vừa hợp lòng dân. Nhận thức này là cơ sở tạo nhất trí cao trong toàn Đảng và sự đồng thuận sâu rộng trong xã hội với đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN.
Bài học thành công của công tác tư tưởng trong học tập, nghiên cứu, quán triệt nghị quyết Đại hội VI đó là phải gắn chặt việc bồi dưỡng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ, đảng viên với việc học tập, nghiên cứu, quán triệt các văn kiện Đại hội VI của Đảng.
Trong thời điểm này, đối với nước ta đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn, “Nhiều năm nay trong nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội có nhiều quan niệm lạc hậu nhất là những quan niệm về công nghiệp hoá, về cải tạo xã hội chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế, về phân phối lưu thông…”(10) Đây chính là nguyên nhân quan trọng duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp dẫn đến những sai lầm trong chỉ đạo chiến lược, trong cụ thể hoá và tổ chức thực hiện đường lối tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hoá trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Do đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội VI quyết định: “Phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn thực hiện được những mục tiêu do Đại hội VI đề ra”.(11)
Thực hiện quyết định chính trị này của Đại hội và đổi mới tư duy là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, phát huy kết quả của hoạt động tuyên truyền giáo dục Nghị quyết Đại hội VI gắn chặt với nâng cao ý thức trách nhiệm và năng lực đổi mới tư duy lý luận chính trị. Đầu năm 1990, công tác tư tưởng đã chuẩn bị tốt cơ sở lý luận và thực tiễn giúp cho Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khoá VI đánh giá đúng tình hình các nước xã hội chủ nghĩa đang lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng nhất từ trước tới nay; cắt nghĩa nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng này, dự báo những khả năng diễn biến của tình hình cùng đánh giá đúng tác động của cuộc khủng hoảng và âm mưu của chủ nghĩa đế quốc đối với nước ta, quyết định đúng đắn, kịp thời 5 nhiệm vụ cấp bách; mà nhiệm vụ cấp bách hàng đầu là tăng cường công tác tư tưởng trên cơ sở làm cho cán bộ Đảng viên, nhân dân, các chiến sỹ trong lực lượng vũ trang hiểu rõ tình hình, thấu suốt những nhận định và chủ trương của Trung ương.
Hoạt động tư tưởng của Đảng ta trong thời kỳ này đã triển khai đồng bộ và có chất lượng hiệu quả các đợt sinh hoạt chính trị, học tập nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 - khoá VI, các trường chính trị của Trung ương và tỉnh thành mở liên tục các lớp tập huấn nghiên cứu quán triệt, kiên định các quan điểm có tính nguyên tắc: Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta; kiên định sự lãnh đạo của Đảng là đảm bảo vững chắc thắng lợi của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng CNXH; khẳng định những thành tựu của công cuộc đổi mới; chống khuynh hướng phủ định thành quả cách mạng. Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, các lớp tập huấn quán triệt các quan điểm có tính nguyên tắc làm cho mọi cán bộ, đảng viên kiên định vững vàng trước mọi diễn biến phức tạp của tình hình, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế khắc phục những biểu hiện giáo điều rập khuôn; Nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế, khắc phục tư tưởng ỷ lại và ảo tưởng. Nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước các âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động ở trong và ngoài nước chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình phát huy phẩm chất và truyền thống tốt đẹp của Đảng và nhân dân ta, đồng thời kiên quyết khắc phục những sai lầm khuyết điểm của Đảng và Nhà nước, của cán bộ, đảng viên, chống tệ tham nhũng quan liêu, chuyên quyền độc đoán uy hiếp dân và lối sống thực dụng, xa hoa đồi truỵ. Tiếp tục phát huy rộng rãi dân chủ trong Đảng và trong xã hội, đồng thời đấu tranh chống quan điểm dân chủ tư sản, dân chủ cực đoan, buông lỏng trấn áp những hoạt động thù địch chống CNXH. Tăng cường các hoạt động của cán bộ chủ chốt từ cấp huyện trở lên định kỳ và đột xuất xuống cơ sở tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với dân, tăng cường hoạt động tuyên truyền miệng, báo cáo viên, tuyên truyền viên. Sau khi báo cáo chuyên đề báo cáo viên phải giành thời gian trả lời những vấn đề mà người nghe hỏi. Đẩy mạnh lãnh đạo công tác thông tin báo chí xuất bản; Báo chí truyền thông phải làm tốt vừa là cơ quan ngôn luận của các tổ chức trong hệ thống chính trị, vừa là diễn đàn của nhân dân, báo chí cách mạng Việt Nam phải làm tốt chức năng vừa là nhà tuyên truyền giáo dục tập thể, hướng dẫn tổ chức hành động tập thể, cổ động phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân, đồng thời đấu tranh phê phán các thông tin, quan điểm sai trái… Thực hiện một chủ trương, giải pháp của Nghị quyết này, hoạt động tư tưởng của Đảng đã tập trung lực lượng tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn lịch sử 60 năm cách mạng Việt Nam, những vấn đề thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, những vấn đề về chủ nghĩa tư bản hiện đại và chủ nghĩa xã hội dân chủ, chuẩn bị tốt cơ sở khoa học, lý luận, thực tiễn để Đảng ta xây dựng cương lĩnh, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại hội Đảng lần thứ VII thông qua.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Đảng ta đã tăng cường lãnh đạo đổi mới công tác tư tưởng. Đổi mới bắt đầu từ thực hiện nguyên tắc: Toàn Đảng làm công tác tư tưởng, trước hết là Bí thư cấp uỷ, tiếp theo phải đổi mới nội dung đến đổi mới phương thức công tác tư tưởng, từ đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống các cơ quan tham mưu công tác tư tưởng, đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư tưởng: Cán bộ nghiên cứu lý luận, giảng dạy lý luận, cán bộ tuyên truyền cổ động, cán bộ phóng viên báo chí xuất bản phát hành, cán bộ lãnh đạo quản lý từ quy hoạch, đào tạo cán bộ lãnh đạo quản lý văn hóa văn nghệ đến đội ngũ văn nghệ sỹ cùng với quá trình đổi mới từng bước hiện đại hóa các công cụ phương tiện cộng tác tư tưởng.
Nhìn lại những hoạt động chủ yếu nổi bật của công tác tư tưởng của Đảng ta trong những năm đầu của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước chúng ta nhận thức sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau:
- Đối với Đảng ta, công tác tư tưởng là một phần cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của mình; Công tác tư tưởng cùng với công tác tổ chức góp phần trực tiếp xây dựng Đảng ta mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức, xây dựng Đảng thành Bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Hoạt động tư tưởng nhằm phát triển hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền bá hệ tư tưởng; Hình thành và truyền bá cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trong cán bộ Đảng viên và quần chúng đông đảo nhằm đem lại cho họ sự giác ngộ về thế giới quan khoa học về nhân sinh quan cộng sản, biến nó trở thành niềm tin lý tưởng, lẽ sống, thành nguyên tắc đạo đức, thành tình cảm cách mạng. Trên cơ sở đó quần chúng nhân dân tự giác hành động cách mạng hoàn thành thắng lợi từng nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ đi tới thắng lợi hoàn toàn của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
- Công tác tư tưởng có trọng trách trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa con người Việt Nam phát triển toàn diện hướng tới chân thiện mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học.
- Nhìn lại những hoạt động tư tưởng trong những năm đầu của sự nghiệp đổi mới đã: Chuẩn bị cơ sở lý luận và thực tiễn để cho Đảng ta xây dựng đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN, hình thành cương lĩnh, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Truyền bá cương lĩnh đường lối đổi mới của Đảng cho cán bộ Đảng viên, để hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, thành niềm tin lý tưởng, thành nguyên tắc đạo đức, thành tình cảm cách mạng. Trên cơ sở đó nhân dân ta đồng lòng nhất trí tự giác hành động cách mạng vượt qua những khó khăn thách thức gay gắt của cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội và nhất là vượt qua cơn địa chấn chính trị - sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu 1991, vẫn giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy công cuộc đổi mới tiến lên giành thắng lợi to lớn toàn diện, có ý nghĩa lịch sự, tạo điều kiện tiền đề cho nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới.
PGS.TS. Đào Duy Quát
Nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương
(1) Văn kiện Đảng toàn tập – Nhà xuất bản chính trị quốc gia.Tập 55 - Trang 308
(2) Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 46 – Trang 116
(3) Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 46 – Trang 19
(4) Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 46 – Trang 137
(5) Sách đã dẫn. Tập 46 – Trang 13-14
(6) Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 47 – Trang 139-140
(7) Sách đã dẫn. Tập 47 –Trang 140-141
(8) Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 47 –Trang 141, 142, 143, 148, 149, 150, 151
(9) Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 47-Trang 807
(10) Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 47-Trang 807
(11) Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 47-Trang 807