Xây dựng Nhà nước “Nam nữ bình quyền”
Bình đẳng giới – được Việt Nam quan tâm từ những ngày đầu thành lập nước. Trong hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho nông dân nghèo, các sản nghiệp lớn cho công nhân, các quyền dân chủ tự do cho nhân dân, mà còn nhằm: "thực hiện nam nữ bình quyền". Năm 1945, khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần tuyên bố với thế giới và quốc dân rằng: “phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân”. Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cũng nêu rõ: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”.
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào DTTS. Ảnh tư liệu |
Cũng từ đó, phụ nữ bắt đầu có những quyền cơ bản như nam giới. Phụ nữ có quyền tham gia các hoạt động xã hội, tham gia chính quyền, nắm giữ nhiều trọng trách trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo., được học hành, quyền năng phụ nữ được tăng thêm. Tuy nhiên, so với nam giới, phụ nữ vẫn còn nhiều thiệt thòi, bất bình đẳng, đặc biệt trong tiềm thức, suy nghĩ của người dân. Đó cũng là điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đau đáu. Trước lúc ra đi vào cõi vĩnh hằng, Bác Hồ căn dặn trong di chúc "Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất, Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ".
Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản và thực hiện các hoạt động nhằm thúc đẩy bình đẳng giới. Đồng thời, đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận trong thúc đẩy bình đẳng giới và bảo đảm quyền của phụ nữ thông qua việc thực hiện các văn bản quy phạm như Luật Bình đẳng giới (2006), Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, các chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020... Đặc biệt, theo Báo cáo khoảng cách giới toàn cầu năm 2022 do Diễn đàn kinh tế thế giới công bố vào tháng 7/2022, chỉ số xếp hạng về bình đẳng giới của Việt Nam năm 2022 là 83/146 quốc gia, tăng 4 bậc so với năm 2021 (năm 2021 Việt Nam xếp thứ 87/144 quốc gia), trong đó các chỉ số về trao quyền cho phụ nữ, lĩnh vực sức khỏe và giáo dục có những bước tiến bộ rõ rệt. Kinh phí cho công tác bình đẳng giới tiếp tục được quan tâm, bố trí và lồng ghép trong các Chương trình mục tiêu quốc gia, từng bước đảm bảo nguồn lực cho việc triển khai các nhiệm vụ của lĩnh vực bình đẳng giới.
Thuận lợi và khó khăn trong thực hiện bình đẳng giới vùng DTTS
Đối với vùng đồng bào DTTS, phụ nữ càng thiệt thòi hơn do những khó khăn về địa lý, về khoảng cách, về điều kiện kinh tế - xã hội và vì tư duy còn lạc hậu của đồng bào. Phụ nữ và trẻ em gái ở đây chịu rất nhiều thiệt thòi, ít có cơ hội phát triển, ít được tiếp cận với điều kiện để học hành và phát triển hơn. Đó cũng là lý do mà Chính phủ ta luôn quan tâm đến công tác bình đẳng giới vùng đồng bào DTTS. Trong các chủ trương chính sách, những chính sách đặc thù cho vùng DTTS luôn được nhấn mạnh như: Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào DTTS giai đoạn 2015-2025, Đề án Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới vùng DTTS giai đoạn 2018-2025; Đề án Tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030 đã được đưa ra.
Trải dài quá trình xây dựng đất nước, chúng ta đã có những thành tựu nổi bật về bình đẳng giới trong các vùng DTTS và miền núi ở Việt Nam. Theo một dự án nghiên cứu của Viện Khoa học-Lao động và Xã hội (Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội), Vụ DTTS (Ủy ban Dân tộc) và Đại sứ quán Ireland tại Việt Nam công bố mới đây, đã cho thấy, tỷ lệ tảo hôn của người DTTS đã giảm 4,7%, tỷ lệ hộ gia đình DTTS có kết nối internet (wifi, cáp hoặc 3G) tăng 9,4 lần, từ 6,5% năm 2015 lên 61,3% năm 2019; thu nhập bình quân một nhân khẩu/tháng của người DTTS năm 2018 đã tăng mạnh 1,8 lần so với năm 2014 và thu nhập trung bình hàng tháng của hộ gia đình DTTS có chủ hộ là nữ luôn cao hơn so với chủ hộ là nam. Tỷ lệ đi học đúng tuổi của trẻ em DTTS tăng 15,2% trong giai đoạn 2015 và 2019; tỷ lệ người DTTS tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,5% trong đó không có sự khác biệt giữa nam và nữ.
Phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia ngày càng nhiều vào các lĩnh vực của đời sống xã hội; được học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ; có việc làm, thu nhập và ngày càng độc lập, tự chủ hơn về kinh tế; tham gia các hoạt động xã hội ngày càng nhiều hơn; được chăm sóc sức khỏe; thụ hưởng những giá trị văn hóa, tinh thần; có quyền tự chủ hơn trong quyết định kết hôn, sinh con,… Tỷ lệ phụ nữ người dân tộc thiểu số có công việc hưởng lương; tỷ lệ nữ cán bộ, công chức; tỷ lệ nữ dân tộc thiểu số làm kinh doanh ngày càng tăng. Ngày càng có nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia hoạt động chính trị, đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo ở các ban, ngành, đoàn thể Trung ương và hệ thống chính trị của đất nước.
|
Phụ nữ xã Yên Hóa (Minh Hóa - Quảng Bình) hỗ trợ học sinh nữ Cao Hồng Vân để được tiếp tục đến trường. |
Chỉ tính riêng Quốc hội khóa XIV có 133 nữ đại biểu thì 41 nữ đại biểu là người dân tộc thiểu số. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số đã tăng rõ rệt qua từng khóa (từ 4,5% ở khóa IX lên 8,3% ở khóa XIV) và gần như ngang bằng với số đại biểu Quốc hội người dân tộc thiểu số là nam giới. Ở Quốc hội khóa XV, tỷ lệ nữ đại biểu là người dân tộc thiểu số tiếp tục tăng lên 8,8% (44 đại biểu nữ/89 đại biểu người dân tộc thiểu số. Có thể thấy, vai trò, vị thế của phụ nữ dân tộc thiểu số trong gia đình và xã hội đã ngày càng được nâng lên.
Tuy nhiên, phụ nữ và trẻ em gái vùng đồng bào DTTS&MN còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận quyền bình đẳng do nhiều lý do cả chủ quan và khách quan ở trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, y tế và giáo dục, lao động việc làm cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Theo nghiên cứu trên, phụ nữ khu vực này bất bình đẳng về kinh tế, Việc quản lý tài chính, chi tiêu trong gia đình phần lớn đều do nam giới quyết định, nguyên nhân là ở các dân tộc không theo chế độ mẫu hệ có quan niệm đàn ông là người chăm lo gia đình, thờ cúng tổ tiên, nên thường được hưởng thừa kế, được quản lý, định đoạt tài sản. Theo thống kê, có tới 74,2% hộ gia đình dân tộc thiểu số do nam giới đứng tên độc lập về quyền sở hữu đất đai và tín dụng, trong khi tỷ lệ này ở người Kinh chỉ là 40,6%; chỉ có 11,3% phụ nữ ở các dân tộc Hmông, Dao, Brâu, Vân Kiều, Giáy… đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phụ nữ trở nên yếu thế, không được tham gia, quyết định nhiều vấn đề trong gia đình, trách nhiệm phải làm hầy hết việc nhà, thậm chí bị bạo lực gia đình. Ngay cả việc kết hôn, phụ nữ dân tộc thiểu số nhiều khi không được lựa chọn bạn đời theo tình cảm của mình, mà do cha mẹ gả, ép hôn.
Phụ nữ cũng ít được tham gia vào các công việc của hệ thống chính trị các cấp, đảm nhận các chức vụ lãnh đạo, quản lý. Các dân tộc thiểu số như Si La, La Hủ, Cống, Mảng, Lự… hiện nay chưa có cán bộ nữ tham gia vào đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị các cấp.
Đặc biệt, trong lĩnh vực y tế, giáo dục, phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe sinh sản cũng như trong giáo dục, đặc biệt là học tập ở những bậc học cao, hoặc được tham gia các khóa đào tạo chuyên môn, tay nghề, kỹ thuật… Chỉ có 5,9% lao động nữ dân tộc thiểu số có việc làm đã qua đào tạo, trong đó, số lao động có trình độ sơ cấp nghề là 0,2%, trung cấp là 2,5%, cao đẳng là 1,4% và đại học trở lên cũng chỉ đạt 1,7%. Một số dân tộc như dân tộc Hmông chỉ có 0,9% nữ lao động có việc làm đã qua đào tạo, 0% sơ cấp nghề, 0,6% trung cấp, 0,2% cao đẳng và 0,1% từ đại học trở lên, trong khi tỷ lệ lao động nam được đào tạo cao hơn nhiều, là 3,4%, 0,2%, 2,0%, 0,5% và 0,7 %. Chính vì đó, tỷ lệ phụ nữ tiếp cận việc làm cũng thấp hơn, chỉ làm các công việc lao động giản đơn có thu nhập thấp.
Có thể thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện bình đẳng giới hướng tới mục tiêu phát triển bền vững vẫn còn những hạn chế, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, từ cấp ủy và chính quyền địa phương, cán bộ thôn, bản đến chính bản thân những phụ nữ và trẻ em gái vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thúc đẩy bình đẳng giới vùng đồng bào DTTS & MN
Ngày 14/10/2021, tại Quyết định số 1719/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I từ năm 2021-2025, việc thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em được coi là đòn bẩy để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần vùng đồng bào DTTS&MN cũng như đẩy mạnh mục tiêu bình đẳng giới ở khu vực này, khẳng định mối quan tâm đặc biệt của Chính phủ với đối tượng phụ nữ DTTS.
Trải qua gần 2 năm triển khai, việc thực hiện chương trình có một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận qua những kết quả của các địa phương. Đến nay, hầu hết các địa phương có Dự án đều đã tổ chức hội nghị triển khai Dự án, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện để tìm cách tháo gỡ, hướng dẫn các địa phương thực hiện Dự án hiệu quả,chất lượng; định hướng hoạt động; lồng ghép gắn với thực hiện các nhiệm vụ liên quan; cụ thể hóa các nhiệm vụ, chỉ tiêu, giải pháp thực hiện.
|
Nhiều hình thức tuyên truyền bình đẳng giới trong đồng bào DTTS và MN. |
Đối với tỉnh Thái Nguyên, đồng chí Trần Kim Dung - Phó Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Thái Nguyên cho biết, tính đến tháng 6/2023, toàn tỉnh đã thành lập được 151/142 “Tổ truyền thông cộng đồng”; thành lập mới 06 mô hình “Địa chỉ tin cậy”; 11 câu lạc bộ “Thủ lĩnh của sự thay đổi”; tổ chức 81 lớp tập huấn nâng cao năng lực triển khai một số mô hình, hoạt động của dự án; tập huấn giám sát đánh giá về bình đẳng giới, chương trình phát triển năng lực lồng ghép giới và hướng dẫn tổ chức đối thoại chính sách ở cấp cơ sở... cho hơn 3.500 đại biểu tham gia; tổ chức 16 chương trình phát động chiến dịch truyền thông xóa bỏ định kiến, khuôn giới mẫu trong gia đình và cộng đồng cho gần 3.000 hội viên phụ nữ và người dân trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn thuộc 6 huyện.
Bên cạnh đó, Hội LHPN tỉnh chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên nhóm facebook, fanpage, website, Đài Phát thanh - Truyền hình để các cấp Hội cập nhật, chia sẻ thông tin đến đông đảo cán bộ, hội viên, phụ nữ trên địa bàn tỉnh. Các hoạt động trên bước đầu tác động đến đời sống của phụ nữ và trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, mở ra nhiều cơ hội phát triển mới cho từng địa phương được hưởng lợi và được các cấp ủy, chính quyền địa phương đánh giá cao.
Đối với tỉnh Trà Vinh, trong năm 2023, Hội LHPN tỉnh đề ra kế hoạch thành lập, củng cố 18 tổ và duy trì 40 tổ truyền thông cộng đồng; tổ chức 10 lớp tập huấn nâng cao năng lực, hướng dẫn vận hành và quản lý tổ truyền thông theo sổ tay hướng dẫn của Trung ương Hội; xây dựng mạng lưới truyền thông gồm 18 tổ trên nền tảng số để chia sẻ, kết nối hoạt động của các Tổ truyền thông; tổ chức 26 lớp tập huấn hướng dẫn thành lập và vận hành tổ tiết kiệm vay vốn thôn bản; tổ chức 05 lớp tập huấn cho cán bộ ở cơ sở về cách thức thành lập và vận hành câu lạc bộ “thủ lĩnh của sự thay đổi” theo sổ tay hướng dẫn của Trung ương; Tiến hành rà soát, lập danh sách chuẩn bị thành lập 10 câu lạc bộ thủ lĩnh tại 06 huyện (huyện Cầu Ngang, Duyên Hải, Trà Cú, Châu Thành, Càng Long, Cầu Kè). Thực hiện 05 mô hình hỗ trợ phát triển sinh kế, hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân mua bán người, thí điểm thành lập mới 13 địa chỉ tin cậy… Đến nay, nhiều nội dung công việc đã được triển khai, dự kiến sẽ hoàn thành sớm các mục tiêu đã đề ra.
Đồng chí Ngụy Thị Tuyến, Chủ tịch HLHPN tỉnh Bắc Giang cho biết, từ đầu năm 2023 đến nay, tỉnh đã đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, vận động thay đổi “nếp nghĩ, cách làm”, đã thành lập, kiện toàn trên 100 tổ tuyên truyền, thực hiện đầy đủ các nội dung tập huấn theo hướng dẫn và ra quân thực hiện chiến dịch truyền thông. Về nội dung xây dựng và nhân rộng các mô hình, đến nay đã có nhiều đơn vị nâng cấp địa chỉ tin cậy tại cộng đồng, bước đầu đã hình thành được một số tổ liên kết đem lại hiệu quả; tiêu biểu như mô hình trồng thanh long ở xã Đồng Tiến, mô hình liên kết thu mua, sơ chế nông sản ở xã Đồng Vương (huyện Yên Thế). Trong nội dung 3, Hội LHPN huyện đã thực hiện xong các hoạt động theo kế hoạch năm 2023, tiêu biểu đã ra mắt được một số1 CLB “Thủ lĩnh của sự thay đổi”...
Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khi triển khai các hoạt động, đặc biệt để nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ, đội, các mô hình; tăng cường hiệu quả tuyên truyền đến từng chị em phụ nữ DTTS, lãnh đạo các địa phương cho biết cũng đã đề ra các giải pháp như: tiếp tục tăng cường, kiên trì đẩy mạnh truyền thông, phổ biến, giáo dục pháp luật, kiến thức về bình đẳng giới tại vùng DTTS bằng nhiều hình thức sáng tạo, phù hợp với ngôn ngữ, phong tục tập quán của đồng bào DTTS. Cung cấp tài liệu, sản phẩm truyền thông về bình đẳng giới có chất lượng hướng tới đối tượng là đồng bào DTTS.
Song song với đó, tăng cường bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác dân tộc và bình đẳng giới ở cấp cơ sở; áp dụng, nhân rộng những mô hình hay, hiệu quả tại cấp cơ sở để lan tỏa tới cộng đồng những thông điệp ý nghĩa về bình đẳng giới.
Tin tưởng rằng, bằng sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị, sẽ thúc đẩy một cách mạnh mẽ và tạo sự chuyển biến về chất, giúp thay đổi "nếp nghĩ, cách làm" của chị em, nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, đảm bảo tiếng nói và sự tham gia của phụ nữ và trẻ em trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội; để người phụ nữ DTTS có cơ hội vươn lên làm chủ cuộc sống của mình./.