Phát triển tỉnh Hải Dương thành tỉnh công nghiệp hiện đại, hướng đến là thành phố trực thuộc Trung ương

Thứ hai, 27/02/2023 22:52
0:00/ 0:00
Giọng nữ
  • Giọng nữ
(ĐCSVN) – Nghị quyết đặt ra mục tiêu đến năm 2030, phát triển tỉnh Hải Dương thành tỉnh công nghiệp hiện đại, hướng đến là thành phố trực thuộc Trung ương, thuộc nhóm 10 tỉnh, thành phố đứng đầu về quy mô kinh tế của cả nước; với cơ cấu kinh tế hợp lý, dựa trên cơ sở phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ, nông nghiệp sản xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng công nghệ cao, dịch vụ chất lượng cao; bộ mặt nông thôn thông minh, văn minh; đô thị xanh, văn minh, hiện đại, giàu bản sắc và phát triển bền vững…
leftcenterrightdel
 

Ngày 27/2/2023, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Dương đã ban hành Nghị quyết số 27 - NQ/TU thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Nghị quyết nêu rõ, tỉnh Hải Dương nằm ở vị trí trung tâm đồng bằng Sông Hồng, thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm trong tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, cửa ngõ phía Đông của Thủ đô, giáp Vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ. Hoạt động hợp tác với các tỉnh trong vùng gần đây ngày càng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực, liên kết ngày càng chặt chẽ hơn. Tỉnh đã ký kết văn bản hợp tác với các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Thái Bình.

Nhiều năm qua, tỉnh luôn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng tích cực, đảm bảo cân đối ngân sách. Hệ thống kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng bộ, hiện đại và tăng cường kết nối liên tỉnh; phát triển đô thị bước đầu đạt kết quả tích cực, chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới vượt mục tiêu đề ra, diện mạo đô thị, nông thôn khởi sắc rõ nét. Văn hoá, xã hội có bước phát triển mới; an sinh, xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân được nâng lên. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; công tác quốc phòng - quân sự địa phương được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đạt kết quả tích cực; tập trung thực hiện đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn.

Tỉnh đã tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. Năm 2022, quy mô kinh tế của tỉnh đạt trên 169 nghìn tỷ đồng, đứng vị trí thứ 11 trong cả nước và thứ 5 vùng đồng bằng Sông Hồng; GRDP bình quân đầu người đạt 86,9 triệu đồng (cao hơn bình quân chung cả nước); khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ giữ vai trò trụ cột; tỉnh đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng tỉnh nông thôn mới.

Tuy nhiên, kinh tế của tỉnh tăng trưởng chưa bứt phá. Cơ cấu thu ngân sách chưa thực sự bền vững, tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển còn hạn chế. Cải cách hành chính còn nhiều điểm nghẽn; môi trường đầu tư, kinh doanh trên một số lĩnh vực chậm được cải thiện; chưa thu hút được các tập đoàn, doanh nghiệp lớn đầu tư vào tỉnh. Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa được giải quyết dứt điểm, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Tiến độ thực hiện một số công trình kết nối vùng còn chậm. Cơ sở vật chất của một số trường học còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới; nguồn nhân lực chủ yếu là lao động phổ thông, lao động giản đơn; lực lượng lao động chất lượng cao còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu lao động của các ngành sản xuất. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn hạn chế, nhất là ở tuyến xã. Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao từ tỉnh đến cơ sở còn thiếu đồng bộ. Hiệu quả xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao còn rất thấp. Ô nhiễm môi trường, tội phạm, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Tỉnh chưa phát huy tốt nội lực để phát triển tương xứng với vị trí, tiềm năng, lợi thế, có nguy cơ tụt hậu so với các tỉnh trong vùng đồng bằng Sông Hồng.

Phấn đấu TOP 10 tỉnh thành phố đứng đầu về quy mô kinh tế của cả nước

Nghị quyết đề ra mục tiêu đến năm 2030, phát triển tỉnh Hải Dương thành tỉnh công nghiệp hiện đại, hướng đến là thành phố trực thuộc Trung ương, thuộc nhóm 10 tỉnh, thành phố đứng đầu về quy mô kinh tế của cả nước; với cơ cấu kinh tế hợp lý, dựa trên cơ sở phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ, nông nghiệp sản xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng công nghệ cao, dịch vụ chất lượng cao; bộ mặt nông thôn thông minh, văn minh; đô thị xanh, văn minh, hiện đại, giàu bản sắc và phát triển bền vững. Tổ chức đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường; công tác bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu được bảo đảm; quốc phòng - an ninh được giữ vững; tăng cường liên kết, hợp tác trong vùng, với các vùng trong nước và nước ngoài.

Đến năm 2045, phát triển tỉnh Hải Dương trở thành tỉnh công nghiệp hiện đại, phấn đấu đạt các tiêu chí của thành phố trực thuộc Trung ương, có quy mô kinh tế lớn, cơ cấu kinh tế phù hợp, khai thác và phát huy tối đa tiềm năng, sử dụng hiệu quả các nguồn lực; giữ gìn, phát huy di sản văn hóa, bản sắc con người xứ Đông; là trung tâm công nghiệp động lực của vùng đồng bằng Sông Hồng; đảm nhiệm vai trò đầu mối giao lưu kinh tế - xã hội giữa các tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng, vùng Thủ đô Hà Nội, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc với vùng Đông Bắc, vùng duyên hải Bắc Bộ và cả nước.

Về các chỉ tiêu cụ thể, tỉnh đặt ra mục tiêu đến năm 2025, tăng trưởng GRDP đạt bình quân trên 9%/năm. Cơ cấu kinh tế đến năm 2025 là: Nông, lâm nghiệp và thủy sản 8%; công nghiệp - xây dựng 61,5%; dịch vụ 30,5%. GRDP bình quân đầu người đạt 115 triệu đồng/người/năm. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt 8,5%. Tỷ lệ đóng góp bình quân của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng giai đoạn 2021-2025 đạt 50%. Kinh tế số đạt khoảng 20% GRDP. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 45%; có 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.

Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia: mầm non đạt 70%, tiểu học đạt 98,7%, trung học cơ sở đạt 95%, trung học phổ thông đạt 80%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ năm 2025 đạt 33%. Tỷ lệ thất nghiệp còn 3-4%. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm 4/5 theo chuẩn mới. Đạt 36 giường bệnh và 10 bác sĩ/vạn dân. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 95% dân số.

Tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn ở thành thị và nông thôn đạt 100%; 100% khu công nghiệp và 100% các cụm công nghiệp (có chủ đầu tư hạ tầng) đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%.

Đến năm 2030: Tăng trưởng GRDP đạt bình quân trên 9%/năm. Cơ cấu kinh tế đến năm 2030 là: Nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm khoảng 4,8%; công nghiệp - xây dựng chiếm khoảng 58,4%; dịch vụ chiếm 31,2% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,6%. GRDP bình quân đầu người đạt 200 triệu đồng/người/năm. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt 8,5%. Tỷ lệ đóng góp bình quân của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng giai đoạn 2021-2030 đạt 50%. Kinh tế số đạt khoảng 35% GRDP. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 60%; có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.

Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia: mầm non trên 90%; tiểu học 100%; trung học cơ sở trên 95%; trung học phổ thông trên 90%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đến năm 2030 đạt 48%, tỷ lệ thất nghiệp dưới 3%. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm khoảng 1,5%/năm. Đạt 40,5 giường bệnh và 11 bác sĩ/vạn dân. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 99%.

Tỷ lệ hộ gia đình được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn ở thành thị và nông thôn đạt 100%; 100% khu công nghiệp và 100% các cụm công nghiệp (có chủ đầu tư hạ tầng) đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 100%; tỷ lệ chất thải nguy hại được thu gom, xử lý theo quy định đạt 100%. Giảm 9% lượng phát thải khí nhà kính. 

Về các công trình trọng điểm, phấn đấu huy động nguồn lực để cùng Trung ương đầu tư tuyến đường Vành đai 5 Vùng Thủ đô Hà Nội đoạn qua địa bàn tỉnh Hải Dương. Đầu tư khu công nghiệp chuyên biệt ở khu vực các huyện Bình Giang và Thanh Miện để góp phần phát triển tỉnh Hải Dương trở thành trung tâm công nghiệp động lực của vùng.

Huy động mọi nguồn lực thực hiện

Để đạt mục tiêu đề ra, tỉnh đã đề ra 10 nhóm giải pháp cụ thể gồm: Quán triệt, tuyên truyền, phổ biến thông tin và triển khai thực hiện Nghị quyết; Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển; đẩy mạnh liên kết vùng; Phát triển kinh tế vùng; Phát triển bền vững hệ thống đô thị và hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; Phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; Phát triển giáo dục, đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân; Quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; Bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị…

Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Dương giao Ban cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng và ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW, Nghị quyết số 14/NQ-CP và Nghị quyết này. Ban hành Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Nghị quyết theo nhiệm kỳ; trước mắt, xây dựng và ban hành ngay Kế hoạch hành động triển khai thực hiện giai đoạn 2023-2025 và Kế hoạch triển khai thực hiện các công trình trọng điểm; trong đó, xác định rõ, đầy đủ các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, tiến độ thực hiện, dự kiến kết quả đầu ra đối với từng nhiệm vụ, giải pháp và phân công đơn vị chủ trì thực hiện. Định kỳ hằng năm báo cáo kết quả thực hiện với Ban Thường vụ Tỉnh ủy.

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy chỉ đạo công tác tuyên truyền Nghị quyết 30-NQ/TW, Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và quá trình tổ chức thực hiện tới cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân; kịp thời phản ánh những gương điển hình, kinh nghiệm hay trong triển khai thực hiện Nghị quyết.

Ban Dân vận Tỉnh ủy, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội vận động đoàn viên, hội viên, Nhân dân nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận, thống nhất trong các tầng lớp Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp về các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết.

Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh căn cứ Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, giám sát việc thực hiện theo quy định và rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách, kế hoạch để tổ chức thực hiện đảm bảo hiệu quả.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hải Dương cũng yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng căn cứ Nghị quyết và Chương trình hành động để quán triệt, triển khai sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân và cụ thể hóa các nội dung có liên quan phù hợp với đặc điểm tình hình của ngành, địa phương, đơn vị; thường xuyên theo dõi việc tổ chức thực hiện, tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện ở cơ sở.../.

Hiền Nguyễn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực