Cổng làng Hà Nội xưa

Thứ hai, 08/05/2023 14:39
(ĐCSVN) – Qua nhiều giai đoạn lịch sử đến nay, không ít cổng làng của Hà Nội còn được lưu giữ tại nhiều làng, xã hay nội đô. Đó là một mảng mầu văn hóa in đậm dấu ấn thời gian, mang nhiều trầm tích văn hóa, giúp mỗi người được tìm về thuở ban đầu, để không quên đi nhiều thứ khác.

Theo tài liệu, ở thế kỷ XV Hà Nội có 2 huyện 36 phường đến thế kỷ XIX, số phường đã tăng lên thành phường nghề, phường buôn và phường Nông nghiệp - Những cư dân ở đây theo nếp sống “trâu ta ăn cỏ đồng ta” làng nào, phường nào cũng có cổng và rào luỹ phân cách với nhau. Chỉ đến năm 1888, Hà Nội bị đô hộ bởi thực dân Pháp, công cuộc biến cải làng thành phố đã xảy ra ở hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Sau năm 1954, Thủ đô Hà Nội được giải phóng, công cuộc xây dựng công nghiệp nặng, đã xoá bỏ nhiều làng xưa xóm cũ. Thành phố chuyển mình theo cơn lốc đô thị hoá, sự biến cải đó cũng là tất yếu trong tiến trình phát triển xã hội.

Thực tế tại 8 quận 5 huyện của Hà Nội, thu lượm được hình ảnh 109 cổng làng và những câu chuyện văn hoá làng qua chuyện kể dân gian, hội làng và câu chữ nơi cổng làng. Tại 12 quận huyện, nội thành của Hà Nội còn những cổng làng: Quận Hoàn Kiếm có 2 cổng làng, quận Ba Đình (4 cổng làng), quận Cầu Giấy (9 cổng làng), huyện Đông Anh (22 cổng làng), quận Đống Đa (1 cổng làng), huyên Gia Lâm (9 cổng làng), quận Hoàng Mai (7 cổng làng), quận Long Biên (6 cổng làng), huyện Sóc Sơn (2 cổng làng), quận Tây Hồ (10 cổng làng), huyện Thanh Trì (17 cổng làng), quận Thanh Xuân (2 cổng làng), huyện Từ Liêm (18 cổng làng).

 Cổng tiền làng Yên Lạc, thôn Đồng Lạc (Chương Mỹ, Hà Nội) xây dựng năm 1942. 

 Ngoài ra Hà Nội còn nhiều cổng làng cổ có giá trị lịch sử, văn hoá khác. Điển hình như cổng làng Đường Lâm, thị xã Sơn Tây (Hà Nội) hiện còn  lưu giữ dấu tích về ngôi làng cổ gắn với hình ảnh cây đa, giếng nước, sân đình - biểu tượng chung của làng quê vùng Bắc Bộ.

Một cổng khác đó là cổng làng Phúc Lý, huyện Từ Liêm, Hà Nội xây dựng theo kiến trúc cổng tam quan. Cổng làng Đại Yên (phường Đội Cấn, quận Ba Đình) xây năm 1924, có tên chữ Hán là Đại An Môn, hiện đã xuống cấp, dân đã lấn chỗ để ở và buôn bán. Cổng làng Thành Công (phường Thành Công, quận Ba Đình) xây dựng năm 1990, theo kiến trúc truyền thống làng Việt. Cổng làng Trung Nha (Phường Nghĩa đô, quận Cầu Giấy), cổng làng có tên chữ Hán là Trung Nha Môn, được xây dựng 2 tầng, trên là một lầu gác, mở cửa tròn tầng dưới rộng, vòm cong tạo thành một gian nhà. Bên cổng là cây đa cổ thụ cành lá che trùm nóc cổng. Làng Trung Nha xa xưa từng là làng nghề làm giấy sắc – loại giấy khổ lớn, dày tờ nhuộm vàng, mặt giấy vẽ tứ linh và rồng mây để triều đình dùng viết bằng sắc.

Cổng Vạn Long (Vạn Long Môn) tại đường Hoàng Quốc Việt, quận Cầu Giấy với kiến trúc một cổng nhỏ, còn lưu đôi câu đối cổ. Cổng làng Phúc Lý, huyện Từ Liêm, Hà Nội xây dựng theo kiến trúc cổng tam quan. Cổng làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội xây năm 1932 với hoành phi và câu đối vinh danh, ca tụng lịch sử làng.

Cổng làng phố Hàng Ngang, phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm (hiện không còn), theo tư liệu cổng phố Hàng Ngang có tên chữ Hán là Việt Đông. Theo sách đường phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Vinh Phúc và Trần Huy Bá, phố Hàng Ngang dài 152 m thuộc đất phường Diên Hựu, tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương cũ…

Dấu ấn lịch sử Hà Nội

Một trong những cổng làng gắn với lịch sử hình thành của Hà Nội ngày nay đó là cổng làng Cống An (Cống Yên), phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình (bị lấp đường vào từ năm 1955, hiện chỉ còn một cổng nhỏ). Công trình kiến trúc cổ này phản ánh một thời kỳ lịch sử của vùng đất Thăng Long với dấu ấn thập tam trại, gắn với truyền thuyết dựng làng của dũng sĩ họ Hoàng và nhân dân làng Lệ Mật.

Theo tài liệu về lịch sử Thăng Long - Hà Nội, trại Cống Yên một trong 13 trại. Tuy cũng là trại trong Thập tam trại do ông Hoàng Phúc Trung - người con trai làng Lệ Mật có công đánh nhau với Thuỷ quái trên sông Thiên Đức, mang được thi hài công chúa con vua Lý về, đã không cần danh vọng mà chỉ xin với vua cho phép đưa dân Lệ Mật sang cõi đất phía Tây Thăng Long để khai khẩn. Nhà vua đã ưng thuận và nhân dân Lệ Mật sang tây thành Thăng Long lập nên 13 trại gồm: Cống Vị, Giảng Võ, Liễu Giai, Vạn Phúc, Ngọc Hà, Hữu Tiệp, Vĩnh Phúc, Thủ Lệ, Đại An, Cống An, Kim Mã, Ngọc Khánh, Vạn Bảo. Những trại này, lúc đầu chỉ do một vài dòng họ khai khẩn, sau đông lên lập thành làng xã. Tuy vậy giữa nơi ở mới và quê cũ vẫn có một sợi dây huyết thống liên quan. 

 Người dân các phường Cống Vị, Giảng Võ dự lễ rước truyền thống về làng Lệ Mật (Gia Lâm – Hà Nội).

Tuy cùng chung thờ người khai sáng ra đất trại, nhưng tại mỗi làng, lại có thờ phụng thành hoàng riêng. Tại trại Cống Yên từ năm Trùng Hưng đời Trần đã được vua Trần chuẩn tấu, sắc phong vị tướng có công đánh trận Bạch Đằng là Quảng Hồng linh ứng đại vương làm Thượng đẳng phúc thần Thành hoàng làng. Hàng năm, giỗ thành hoàng vào ngày 13 tháng Giêng.

Hiện nay làng Cống An dù thờ thành hoàng là Quảng Hồng đại vương hàng năm đến hội làng Lệ Mật, làng Cống Yên vẫn cùng các làng khác trong 13 trại về làng Lệ Mật làm lễ.

Tác giả Văn Hậu cũng đã viết “Hội Cống Yên” in trong “Lễ hội Thăng Long” có câu ca dao về Tổng nội. "Tổng Nội chín ngại chớ nhầm/ Liễu Giai, Giảng Võ, lại gần Đại An/ Thủ Lệ, Cống Vị là năm/ Hữu Tiệp, Vạn Bảo, Cống An, Ngọc Hà”.

Những cổng làng xưa gắn kết với truyền thống lịch sử, văn hóa là một phần của văn hiến Hà Nội. Trong thời kỳ phát triển hiện nay, ý nghĩa đẹp đẽ của cổng làng đang được nhiều địa phương ý thức tốt hơn. 

Ở nhiều làng xã dù xây mới cổng làng, những vẫn dựa trên cơ sở bảo tồn những nét văn hóa xưa. Những cổng mới bây giờ thường theo mẫu riêng của từng nơi nhưng phần lớn đều cố gắng giữ lại những nét cổ kính như: Đại tự ghi trên cổng, câu đối cũ và mới. Khi đi đến những nơi đó, thấy bóng cổng làng là cảm thấy ấm lòng, thấy được sự hoà hợp, giữa cảnh vật và con người, được tìm về nơi ông cha ta đã đã gửi gắm ước nguyện đến chúng ta, được tìm về hồn làng, tìm về cái thuở ban đầu, để không quên đi nhiều thứ khác.

Bài, ảnh: N Dương

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực