Bài 5: Chuyển đổi số trong “Tam nông” - Thực trạng và giải pháp

“Tam nông” ở Quảng Nam - Những vấn đề đặt ra
Thứ tư, 31/05/2023 16:37
(ĐCSVN) – Chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã và đang được cấp uỷ, chính quyền, ngành chức năng và người dân tỉnh Quảng Nam dành nhiều sự quan tâm. Về vấn đề này, đồng chí Trương Xuân Tý- Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Nam đã chia sẻ với phóng viên về nhiệm vụ và một số kết quả cơ bản trong lĩnh vực này tại địa phương.

Bài 1: Thành tựu và những vấn đề đặt ra đối với “Tam nông” ở Quảng Nam

Bài 2: Đổi mới tư duy trong “Tam nông” ở Quảng Nam

Bài 3: Xây dựng Nông thôn mới ở miền núi không có điểm kết thúc

Bài 4: Cần nhân rộng những “Điểm sáng” trong kinh tế Nông thôn mới ở Quảng Nam

 Đồng chí Trương Xuân Tý- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Quảng Nam. 

Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, xin đồng chí cho biết một số kết quả bước đầu trong công tác chỉ đạo và thực hiện các nhiệm vụ chuyển đổi số trên lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn của tỉnh Quảng Nam hiện nay ?

Đồng chí Trương Xuân Tý: Thời gian qua, công tác chuyển đổi số đã được Chính phủ, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Nam tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện. Ngành Nông nghiệp tỉnh cũng đã ban hành Kế hoạch số 1313/KH-SNN&PTNT ngày 10/6/2021 về triển khai thực hiện Chương trình chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Trong giai đoạn đầu triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số, Sở NN&PTNT đã chú trọng tập trung tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức trong toàn Ngành; các chủ thể sản xuất hiểu và tiếp cận có hiệu quả chuyển đổi số vào trong quá trình quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất; đồng thời vận hành hiệu quả Hệ thống thông tin báo cáo tỉnh (LRIS) kết nối với Hệ thống thông tin báo cáo Quốc gia (GRIS); đề xuất xây dựng hệ thống thông tin ngành Nông nghiệp và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành; sử dụng có hiệu quả các hệ thống cơ sở dữ liệu của Bộ NN&PTNT.

Về kinh tế số, đến nay Quảng Nam đã tổ chức thực hiện thí điểm các mô hình chuyển đổi số trong sản xuất, thu hoạch, chế biến, tiêu thụ nông sản chủ lực, sản phẩm OCOP cho các hợp tác xã trên địa bàn tỉnh theo hướng tích hợp thực hiện Chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2022-2025”. Cạnh đó, địa phương cũng đồng thời đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử trên Cổng thông tin sản phẩm Quảng Nam (http://sanpham.quangnam.gov.vn; http://conghtxocop.vn); tổ chức các phiên chợ khuyến nông và các sàn thương mại điện tử tại địa chỉ: Postmart.vn, Voso.vn. Từ những nỗ lực này, hiện toàn tỉnh đã và đang tập trung hỗ trợ giới thiệu, quảng bá trên nền tảng số hơn 100 sản phẩm OCOP ở các sàn thương mại điện tử và các địa chỉ kể trên…

PV: Đối với khu vực ven biển, hải đảo, nhất là cộng đồng ngư dân, việc chuyển đổi số để nâng cao công tác quản lý trong đánh bắt, truy xuất hàng hoá, hoá đơn, liên lạc, an toàn trên biển, định vị, thuế…. được bà con thực hiện thế nào? Khó khăn và giải pháp trong thời gian tới ra sao thưa đồng chí?

Đồng chí Trương Xuân Tý: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam tàu cá hoạt động vùng khơi có chiều dài >24m là 44 chiếc, tàu cá ≥15 mét là 657 chiếc; tàu cá hoạt động vùng lộng có chiều dài từ 12 ÷ <15m là 720 chiếc, tàu cá hoạt động vùng bờ có chiều dài từ 6 ÷ <12m là 1.338 chiếc. Với tổng sản lượng khai thác thủy sản hàng năm đạt từ 90 ÷ 100 ngàn tấn, giá trị sản xuất xấp xỉ 3.000 tỷ đồng/ năm. Khai thác thuỷ sản đã góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và đã giải quyết việc làm cho khoảng 15.000 lao động, trong đó 13.000 người khai thác trực tiếp trên biển và khoảng 2.000 lao động trên bờ làm nghề thu mua thủy sản và dịch vụ hậu cần khác (bán nhu yếu phẩm, đá lạnh ...).

Trong thời gian qua, bà con ngư dân đã ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất như máy đo sâu - dò cá, máy định vị, máy thông tin liên lạc, hầm bảo quản sản phẩm bằng vật liệu PU, sử dụng đèn LED... nhằm tiết kiệm nhiên liệu, nâng cao hiệu quả khai thác. Song, công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực khai thác thuỷ sản cũng gặp không ít khó khăn, nhất là trong quản lý tàu cá, minh bạch nguồn gốc các sản phẩm thuỷ sản khai thác,... đòi hỏi phải có phương thức quản lý mới phù hợp hơn. Do đó, công tác chuyển đổi số bước đầu cũng được ứng dụng vào trong khai thác thủy sản để giải quyết các tồn tại nêu trên.

Với sự kết nối đồng bộ giữa máy định vị, bộ đàm và các thiết bị liên lạc kỹ thuật số,
gia đình ngư dân hiện nay có thể liên lạc với đội tàu của mình đang đánh bắt ngoài khơi. 

Trước hết, về lắp đặt thiết bị giám sát hành trình tàu cá. Việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình định vị 24/24 sẽ cho biết chính xác và đầy đủ về tốc độ, hướng đi, vùng khai thác và một số hoạt động của tàu thuyền. Điều này giúp các ngư dân quản lý được quá trình khai thác thủy sản một cách dễ dàng, từ đó vạch ra lộ trình đánh bắt phù hợp và tối ưu tối đa chi phí cho mỗi lần ra khơi. Thiết bị giám sát hành trình còn giúp ngư dân đưa ra cảnh báo cứu hộ, cứu nạn khi gặp sự cố trên biển hoặc hỗ trợ ứng cứu kịp thời các tàu cá khác đang gặp nạn ngay khi nhận tín hiệu từ thiết bị. Ngoài ra, thiết bị giám sát hành trình thường xuyên thông báo về tình hình thời tiết trên các vùng biển, giúp ngư dân chủ động hơn để ứng phó với các tình huống thiên tai trong quá trình đánh bắt hải sản. Việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình còn giúp cơ quan quản lý nhà nước xác định được hành vi đánh bắt sai vùng hoạt động; tàu cá vượt ra ngoài ranh giới của vùng biển Việt Nam để có phương án xử lý kịp thời; hỗ trợ tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn khi có thiên tai…

Đến nay trên 98,5% tàu cá trong tổng số 657 tàu có chiều dài lớn nhất từ 15 mét trở lên đã lắp thiết bị giám sát hành trình tàu cá, trong đó hơn 288 tàu cá sử dụng thiết bị giám sát hành trình tích hợp điện thoại vệ tinh có thể liên lạc trực tiếp từ vùng khơi về đất liền.

Đối với lắp đặt các thiết bị điện tử tự động ghi nhật ký đánh bắt hải sản trên biển. Từ đầu năm 2023 đến nay, Quảng Nam có 24 tàu cá có chiều dài từ 15m trở lên đã được thí điểm trang bị thiết bị điện tử tự động ghi nhật ký đánh bắt trên biển (nhật ký điện tử). Theo quy định, tàu cá tham gia khai thác thuỷ sản phải có sổ ghi nhật ký khai thác nhằm thực hiện truy xuất nguồn gốc thủy sản đánh bắt. Với việc lắp đặt thiết bị này ngư dân khai báo chính xác sản lượng, vị trí mẻ lưới đánh bắt mà không cần ghi chép vào sổ nhật ký khai thác giấy như trước đây, thông qua kết nối vệ tinh dữ liệu đánh bắt có thể trích xuất từ thiết bị máy tính trên bờ mà không cần đợi tàu cá về tới cảng; sản phẩm thủy sản minh bạch về nguồn gốc xuất xứ và làm cơ sở để xác nhận chứng nhận nguồn gốc thủy sản.

Ngoài ra, do được tích hợp vệ tinh, nhật ký khai thác điện tử có thể xác định vị trí chính xác tàu cá khi tham gia khai thác trên biển, giúp cơ quan quản lý xác định, có giải pháp nhằm ngăn chặn tàu cá vi phạm khai thác vùng biển nước ngoài.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả kể trên, nhiều khó khăn cũng đã được địa phương phân tích, đánh giá. Trong đó, việc thực hiện lắp đặt thiết bị giám sát hành trình tàu cá, mặc dù đã được quy định bắt buộc và hầu hết đã áp dụng vào thực tiễn. Song vẫn còn một số ngư dân cố tình vô hiệu hệ thống giám sát hành trình để hoạt động đánh bắt sai vùng hoạt động. Hiện nay, nhật ký điện tử chỉ mới áp dụng thí điểm, các phần mềm tiếp nhận thông tin từ nhật ký điện tử đang vận hành thử tại các cảng cá; qua khảo sát ban đầu, phần lớn ngư dân với thói quen sản xuất truyền thống, trình độ chưa cao nên còn ngại trong việc ứng dụng thử nghiệm thiết bị này. Ngoài ra, việc lắp đặt thiết bị nhật ký khai thác thuỷ sản điện tử cũng làm phát sinh chi phí sản xuất đất cũng là một trong những rào cản đối với việc khuyến khích người dân áp dụng.

Để khắc phục các khó khăn kể trên, UBND tỉnh và Sở NN&PTNT đã đưa ra những giải pháp cơ bản như: Tiếp tục tăng cường tuyên truyền vận động ngư dân chấp hành các quy định về sử dụng giám sát hành trình tàu cá, chấp hành quy định pháp luật của Việt Nam và các nước trong khu vực về khai thác thủy sản. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về khai thác IUU nói chung và sử dụng giám sát hành trình nói riêng theo quy định tại Nghị định số 42/2019/NĐ-CP của Chính phủ; Đối với việc áp dụng nhật ký khai thác điện tử, tỉnh cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ ngư dân trong việc đầu tư mua sắm, lắp đặt nhật ký điện tử; triển khai áp dụng đồng bộ các phần mềm tiếp nhận thông tin từ nhật ký điện tử của các tàu cá tại các cảng cá.

Thông qua các ứng dụng kỹ thuật số, nông dân Quảng Nam
hằng ngày ngồi ở nhà có thể bật máy tưới ngoài vườn. 

PV: Để tiếp tục thúc đẩy công tác chuyển đổi số, đồng thời cũng là giải pháp căn cơ, quan trọng để ngành nông nghiệp địa phương phát triển xứng tầm với tiềm năng, lợi thế của tỉnh trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, sắp tới Quảng Nam sẽ tập trung những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng nào, xin đồng chí có thể thông tin với bạn đọc ?

Đồng chí Trương Xuân Tý: Trong thời gian tới, nhiều nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện có hiệu quả chương trình Chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã được đặt ra. Trong đó, trước hết là sẽ xây dựng và phát triển nền tảng phục vụ chuyển đổi số nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cụ thể, tỉnh sẽ tập trung chuẩn hóa tài liệu lưu trữ; số hóa tài liệu, từng bước xây dựng kho dữ liệu số tập trung của ngành NN&PTNT, hình thành nên các nguồn dữ liệu mở phục vụ công tác quản lý, điều hành và khai thác dữ liệu của công dân, doanh nghiệp.

Cùng với đó, các cơ quan, đơn vị chức năng cũng tiến hành xây dựng, cập nhật, quản lý, khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu nền tảng ngành nông nghiệp, nông thôn, nông dân phù hợp với danh mục cơ sở dữ liệu của Bộ NN&PTNT và Đề án “Phát triển ứng dụng Công nghệ thông tin, xây dựng chính quyền số tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2021-2025.

Quảng Nam cũng tập trung quan tâm khai thác, vận hành có hiệu quả hệ thống thông tin dùng chung của tỉnh, Bộ NN&PTNT, các Bộ, ngành liên quan và quốc gia.

Nhóm giải pháp thứ hai là quan tâm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số vào phát triển kinh tế nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Xem đây là nhiệm vụ then chốt cần tổ chức triển khai thực hiện trong Chương trình phát triển kinh tế số và xã hội số.

Theo đó, tỉnh sẽ tổ chức lại sản xuất nông nghiệp. Cụ thể là các địa phương tổ chức quy hoạch xây dựng vùng huyện phù hợp với quy hoạch chung của tỉnh; hình thành, phát triển vùng nguyên liệu, vùng nuôi tập trung đối với các nhóm sản phẩm chủ lực, OCOP, bản địa; thực hiện cấp mã số vùng trồng; cấp giấy chứng nhận vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh động vật trên cạn, động vật thủy sản.

Tại các cơ quan hành chính “một cửa”, người dân nông thôn khi đến giải quyết thủ tục hành chính
sẽ tiếp cận với thiết bị máy móc thông minh để giải quyết các thủ tục hành chính. 

Tiếp tục có những ưu tiên, hỗ trợ thúc đẩy sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn, có chứng nhận, đặc biệt là áp dụng quy trình kỹ thuật, quy trình thực hành sản xuất tốt và tương đương; sản xuất theo yêu cầu cụ thể từng thị trường trong nước và xuất khẩu nhằm đạt được mục tiêu tạo sản phẩm nông nghiệp có chất lượng, đảm bảo các yêu cầu về an toàn thực phẩm theo qui định hoặc được chứng nhận VietGAP (tương đương), sản phẩm hữu cơ …. đồng thời, ứng dụng công nghệ số để số hóa quy trình sản xuất, chế biến, xây dựng nhật ký điện tử, truy xuất nguồn gốc.

Tập trung phát triển mạnh liên kết sản xuất, hình thành chuỗi giá trị nông sản gắn với vùng nguyên liệu, tạo động lực thu hút doanh nghiệp đầu tư ứng dụng công nghệ số vào các khâu trong chuỗi giá trị, giúp tập trung được nguồn lực cả về vốn, nhân lực, tài nguyên (đất đai) để hình thành nên một chuỗi giá trị nông sản đủ mạnh về chất lượng và sản lượng.

Xây dựng thương hiệu cho nông sản thông qua việc đăng ký bảo hộ, khai thác, quản lý, phát triển chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể trong nước và quốc tế; gắn với đăng ký mã số vùng trồng, an toàn thực phẩm, chứng nhận chất lượng và xác thực, truy xuất nguồn gốc sản phẩm được bảo hộ theo hướng hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm.

Đầu tư, phát triển thương mại điện tử, nhất là đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại theo sản phẩm chủ lực và đặc trưng của tỉnh trong tình hình mới trên nền tảng số, sàn giao dịch điện tử.

Nhóm giải pháp cơ bản thứ ba là triển khai có hiệu quả Chương trình Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông minh. Trong đó, sẽ thúc đẩy kinh tế số trong phát triển kinh tế nông thôn như: Đẩy mạnh quá trình số hóa, xây dựng bản đồ số nông nghiệp nông thôn, cơ sở dữ liệu đồng bộ, thực hiện quản lý mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc đối
với các sản phẩm nông nghiệp, nông thôn; tăng cường ứng dụng công nghệ trong công tác quảng bá, xúc tiến thương mại, thương mại điện tử cho các sản phẩm nông nghiệp, nông thôn; Ứng dụng trực tuyến, công nghệ thực tế ảo, tăng cường trong công tác quảng bá, xúc tiến thương mại, thương mại điện tử cho các sản phẩm nông nghiệp, nông thôn.

Song song với công tác trên, Quảng Nam sẽ tập trung phát triển xã hội số trong xây dựng nông thôn mới thông qua việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong hoạt động lấy ý kiến sự hài lòng của người dân về kết quả xây dựng nông thôn mới; hỗ trợ các tổ chức và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ số đầu tư, phát triển và cung cấp dịch vụ trực tuyến về y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, môi trường nông thôn ở các địa phương; triển khai nền tảng địa chỉ số quốc gia gắn với bản đồ số, đảm bảo từng địa chỉ hộ gia đình, cơ quan, tổ chức, khu di tích được gắn biển địa chỉ số; tuyên truyền, hướng dẫn và khuyến khích người dân sử dụng các nền tảng, dịch vụ số và kỹ năng an toàn, trọng tâm là dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ y tế số, giáo dục số, sử dụng các mạng xã hội, mua bán trực tuyến, thanh toán điện tử và khai thác tiện ích, tài nguyên số trên Internet.

Đặc biệt, theo chỉ đạo của UBND tỉnh, tới đây Quảng Nam sẽ tiến hành xây dựng thí điểm các mô hình xã nông thôn mới thông minh gắn với lĩnh vực nổi trội ở các địa phương về y tế, giáo dục, văn hóa, an ninh trật tự, môi trường, cải cách hành chính, an ninh trật tự, du lịch nông thôn… và các mô hình thôn nông thôn mới thông minh để nhân rộng trên địa bàn tỉnh gắn với việc thực hiện tiêu chí thôn nông thôn mới kiểu mẫu.

PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này; chúc tỉnh Quảng Nam sẽ gặt hái thêm nhiều thành công và kết quả tích cực mới trong chuyển đổi số ở khu vực “Tam nông” thời gian tới./.

Đình Tăng (thực hiện)

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực