Tăng cường công tác ứng phó và bảo vệ vùng ven biển trước thiên tai, biến đổi khí hậu

Thứ tư, 09/08/2023 14:08
Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260 km và các khu vực ven biển với thiên nhiên trù phú hiện đang mang lại sinh kế cho khoảng 1/2 dân số cả nước. Tuy nhiên, là một trong số các quốc gia phải đối mặt với nhiều loại hình thiên tai, vùng ven biển Việt Nam thường xuyên phải chịu ảnh hưởng nặng nề của các thảm họa thiên nhiên, gây thiệt hại đáng kể về người và kinh tế.

Về vấn đề này, Đại diện Lãnh đạo Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu đã đưa ra những kịch bản và một số giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng tại các địa phương vùng ven biển sẽ phải đối mặt

Cả nước có 28/63 tỉnh/thành phố có biển, nhưng có tới 34 tỉnh/thành phố có nguy cơ ngập do nước biển dâng (bao gồm toàn bộ 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long), trong đó bao gồm hơn 100 đơn vị hành chính cấp TP, thị xã, huyện có đường bờ biển. Do ảnh hưởng của BĐKH, khu vực ven biển của Việt Nam thường xuyên phải chịu những rủi ro do thiên tai nhiều nhất cả nước và tác động không nhỏ đến đời sống xã hội, phát triển kinh tế.

BĐKH sẽ làm cho diện tích nhiễm mặn ở vùng ven biển tăng đáng kể, từ đó giảm sút sản lượng lúa và nhiều hậu quả khác về môi trường. BĐKH còn làm suy giảm đa dạng sinh học vùng ven bờ, thay đổi hệ sinh thái của các vùng thấp ven sông, trong sông và cửa sông do thay đổi lượng mưa, dòng chảy mặt và nước ngầm cùng một số đặc trưng của chất lượng nước và chất dinh dưỡng. Các đợt hạn hán ngày càng xuất hiện nhiều hơn tại nhiều địa phương ven biển sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng xâm nhập mặn. Nhất là khu vực Nam Trung Bộ, lượng mưa hàng năm trong khu vực đạt thấp nên dòng chảy tại khu vực này sụt giảm mạnh dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn lấn sâu vào đất liền, ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất nông nghiệp và nguồn nước sinh hoạt của người dân ven biển.

Đối với các loại cây trồng khác như hoa màu, các loại cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày cũng bị ảnh hưởng, năng suất cây trồng giảm khoảng 50% do tác động của BĐKH. Ngược lại, ngập lụt kéo dài cũng gây thiệt hại kinh tế và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt của người dân. Ô nhiễm nước do lũ lụt cũng gây ra các bệnh liên quan do thiếu nước sạch và vệ sinh môi trường không đảm bảo như bệnh đau mắt, bệnh ngoài da, bệnh phụ nữ và các bệnh về đường hô hấp.

Khu vực ven biển còn chịu tác động nghiêm trọng của nước biển dâng. Theo Kịch bản BĐKH của Việt Nam năm 2020, nếu mực nước biển dâng thêm 100 cm, khu vực Đồng bằng Sông Cửu long có nguy cơ ngập khoảng 47% diện tích, khoảng 10% dân số tại khu vực ĐBSCL bị ảnh hưởng trực tiếp do mất đất. Khi mực nước biển dâng trung bình 57cm, sẽ có khoảng 8% diện tích rừng và thảm thực vật tự nhiên ở vùng ven biển có nguy cơ bị ngập. Diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp nghiêm trọng nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bà Rịa - Vũng Tàu, Nam Định và TP. Hồ Chí Minh.

Sự phát triển nhanh của đô thị và kinh tế-xã hội cộng hưởng với tác động của nóng lên toàn cầu, dẫn đến làm gia tăng nhanh hơn các hiện tượng cực đoan, cũng như rủi ro khí hậu ở các địa phương ven biển. Trong đó, những tác động cần chú ý đó là nước biển dâng, xâm nhập mặn, ngập lụt đô thị, đảo nhiệt đô thị và nắng nóng, lũ lụt, sạt lở bờ sông và bờ biển, gió mạnh, bão và áp thấp nhiệt đới…

Do vậy, để ứng phó hiệu quả với thiên tai và BĐKH, chúng ta cần làm rõ bản chất về vấn đề khoa học với các quá trình phát triển, làm cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch và phát triển đô thị, các địa phương ven biển; Quy hoạch và phát triển kinh tế - xã hội cần lồng ghép ứng phó với thiên tai, BĐKH và giảm phát thải khí nhà kính (KNK).

 Khu vực ven biển thường xuyên hứng chịu các đợt mưa bão

Thực hiện lồng ghép nội dung ứng phó với BĐKH vào chiến lược, quy hoạch sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng cường sự phối hợp liên ngành, liên vùng và đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong hoàn thiện chính sách và thực hiện các chương trình, dự án đầu tư ứng phó với biến đổi khí hậu. Hiện nay, hầu hết các Bộ, ngành, địa phương đều đã đưa ra kế hoạch lồng ghép nội dung ứng phó BĐKH trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội.

Lợi ích của việc chủ động thích ứng sẽ tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên và kinh tế của các tỉnh. Từ đó mang lại một số lợi ích nổi bật cho các địa phương, giúp nâng cao được khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội, đảm bảo sinh kế bền vững của từng địa phương.

Qua đánh giá của Viện, để thích ứng và phòng chống thiên tai, các địa phương, Bộ, ngành liên quan cần phải tuân thủ các quy định của Luật Phòng, chống thiên tai; cũng như chỉ đạo của Đảng, Chính phủ về chủ động ứng phó thiên tai. Trong đó, nâng cao hiệu quả công tác dự báo, cảnh báo KTTV biển, bao gồm cả dự báo tác động, xây dựng bản đồ phân vùng rủi ro đa thiên tai vùng ven biển, xây dựng các mốc cảnh báo ngập lụt do nước dâng do bão, triều cường cho toàn dải ven biển; xây dựng hệ thống trực canh và cảnh báo sóng thần kết hợp với cảnh báo các loại thiên tai khác; xây dựng và cập nhật các kịch bản BĐKH và NBD; củng cố, nâng cao cấp hệ thống đê biển, đảm bảo chống các cấp bão thường xuyên xảy ra (bão kết hợp triều cường); tTăng cường trồng cây chắn sóng, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng ngập mặn ở cửa sông, ven biển, bảo tồn cồn cát tự nhiên ven biển.

Đối với các cấp chính quyền, cần phải thường xuyên kiểm tra việc đảm bảo an toàn thiên tai đối với các hoạt động xây dựng hạ tầng kỹ thuật, bố trí dân cư (tập trung, nhỏ lẻ), phát triển kinh tế - xã hội, không làm gia tăng rủi ro thiên tai. Đồng thời xử lý các dự án, hoạt động gây cản lũ, thu hẹp không gian trữ, lấn ra bờ sông, bờ biển, vi phạm hành lang thoát lũ.

Chính quyền cũng triển khai đánh giá thực trạng, rà soát kịch bản, phương án ứng phó với các cấp độ rủi ro thiên tai, phương án trọng điểm bảo vệ đê điều, hồ đập, công trình hạ tầng kỹ thuật… kiểm tra, kiểm soát lực lượng, cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị để sẵn sàng triển khai phương án theo phương châm 4 tại chỗ. Nhất là kịch bản, phương án sơ tán, di dời dân cư phòng tránh ngập lụt do mưa, triều cường và nước dâng do bão. Rà soát, kiểm tra phương án đảm bảo giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không tại các khu vực thường xuyên bị thiên tai; chuẩn bị vật tư, phương tiện sẵn sàng khôi phục đảm bảo giao thông thông suốt.

Bên cạnh đó, cần đưa kiến thức, kỹ năng phòng chống thiên tai vào nội dung chính khóa, ngoại khóa, chuyên đề trong các cấp học. Rà soát, kiểm tra cơ sở vật chất các trường học trong khu vực thường xuyên bị thiên tai đảm bảo trường học an toàn đồng thời là nơi tránh trú cho người dân trong khu vực. Tăng cường truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng kết hợp truyền thông truyền thống, truyền thông cơ sở để kịp thời truyền tải thông tin tới từng người dân để chủ động chuẩn bị, phòng tránh, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.

Chủ phương tiện, tàu thuyền hoạt động trên biển, trên sông phải trang bị đầy đủ phao cứu sinh, thiết bị thông tin, tín hiệu phù hợp; phải cung cấp thông tin kịp thời, chính xác về vị trí, tình trạng của phương tiện đang hoạt động cho chính quyền địa phương, cơ quan chức năng khi thiên tai xảy ra; khi gặp tàu thuyền khác bị nạn phải kịp thời cứu hộ, tìm kiếm, cứu nạn, trường hợp vượt quá khả năng phải bằng mọi cách thông báo cho cơ quan tìm kiếm, cứu nạn.

Người dân cũng cần chấp hành sự hướng dẫn, chỉ đạo, chỉ huy của cơ quan, người có thẩm quyền về sơ tán người, phương tiện ra khỏi hoặc không đi vào khu vực nguy hiểm.

Các hộ gia đình, cá nhân có trách nhiệm chủ động chuẩn bị nhân lực, vật tư, phương tiện, trang thiết bị, nhu yếu phẩm phục vụ hoạt động phòng, chống thiên tai theo hướng dẫn của Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống thiên tai và Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn; chủ động thực hiện biện pháp ứng phó thiên tai và tham gia ứng phó thiên tai theo sự điều động của cơ quan có thẩm quyền./.

VH (Tổng hợp)

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực