Đồng bào Dao thường truyền kể về Bàn Vương và tổ tiên người Dao từ xa xưa rằng, trong chuyến vượt biển tìm đường sống của 12 họ Dao, khi nguy nan nhất mực, cận kề sóng to gió lớn của biển cả, người Dao trong chuyến thuyền bè bão táp đó đã cầu khấn Bàn Vương và tổ tiên phù hộ cho tai qua nạn khỏi và hứa sẽ làm lễ tạ ơn cứu độ.
Lời cầu nguyện linh ứng, từ đó người Dao tổ chức tết nhảy để thể hiện lòng biết ơn với tổ tiên và Bàn Vương đã cứu mạng ngoài biển khơi, luyện âm binh để bảo vệ cuộc sống gia đình, dòng tộc, cầu xin tổ tiên che chở cho gia đình, bản làng mạnh khỏe làm ăn tấn tới. Trong đời sống tín ngưỡng người Dao, Bàn Vương đứng đầu các nhánh tộc người Dao, là vị vua tài giỏi, có sức mạnh vô hình, luôn độ trì, giúp đỡ dân tộc Dao. Bàn Vương được người Dao thờ cúng nhất mực kính trọng và linh thiêng cùng với tổ tiên của người Dao.
Tết nhảy tổ chức vào khoảng ngày mùng 1 đến 25 tháng Chạp, có hai phần chính; diễn ra trong 3 ngày 3 đêm với nhiều nghi thức dâng lễ Bàn Vương, tổ tiên nhiều đời, ông, bà, cha mẹ đã khuất. Mỗi chu kỳ Tết nhảy từ 15 - 20 năm, với mong ước con người sẽ vượt qua gian khó, đoàn kết chống lại các thế lực làm hại đến đời sống yên lành và cầu cho mưa thuận gió hòa, nhân khang vật thịnh.
Các nghi thức lễ có cúng Tết Nguyên đán; cúng chuyển tiếp (Cúng từ Tết Nguyên đán sang Tết nhảy); khai đàn. Lễ vật dâng tế gồm: Hương, hoa, đăng, quả, thủ lợn, gà, xôi, bánh giầy, rượu, nước, tiền đồng xu, cờ các loại, dao thờ… Đội cúng tế gồm 3 người, 1 người là thầy cúng, 2 người phụ giúp chủ Lễ.
|
Múa chuông trong Tết nhảy của người Dao quần chẹt, tỉnh Tuyên Quang. |
Theo tục lệ, Tết nhảy tổ chức tại “Nhà cái” (nhà có bàn thờ tổ). Đây là việc của mỗi gia đình, nhưng cả bản chung tay góp sức, nên được coi như Tết chung của cả bản, làng. Tết nhảy gồm hai phần chính lễ và hội đan xen nhau, người hành lễ vừa cúng vừa múa và đọc thơ. Những màn múa có múa văn và múa võ - Múa văn là vũ điệu con cháu mời ông bà tổ tiên về vui tết nhảy, phù hộ cho gia đình được an khang thịnh vượng. Múa võ là những vũ điệu mạnh mẽ, tái hiện quá khứ, tổ tiên người Dao từng phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, chống lại kẻ thù để vươn lên xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Khi hành Lễ, những người hành Lễ múa bài Thượng đàn đầu tiên, mỗi người cầm một dụng cụ như: Chuông, thanh la, trống, chiêng, gậy thờ…vừa múa, vừa hát, sau đó là múa kiếm, điệu múa có ý nghĩa mở đường, dọn đường, quét đường. Điệu múa chuông thể hiện sự thành kính, tạ ơn tổ tiên và các vị thần đã bảo vệ cuộc sống cho dân làng, dòng tộc, bày tỏ ước muốn các thành viên gia đình mạnh khỏe, làm ăn thuận lợi. Múa rùa diễn tả các động tác tìm, bắt, trói rùa, ba ba về dâng cúng Bàn Vương và các vị thần, tổ tiên, thể hiện lòng can đảm, sự rèn luyện gian nan mới có được thành công.
Sau khi các điệu múa chuông, múa rùa, múa kiếm kết thúc, thày Lễ đọc bài chiêu binh, chiêu lúa gạo khao quân, múa tiễn các loại ôn dịch, rồi chia tiền, hóa tiền giấy, ngựa… tiễn đưa các vị thần. Sau đó các thày Lễ thực hiện lễ cúng ngoài trời, kết thúc phần lễ trong tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng thanh la rộn rã báo hiệu một kỳ lễ hội thành công.
Kết thúc phần Lễ là phần Hội, người dân các làng, bản người Dao sôi nổi tham gia vào các điệu hát múa truyền thống, tạo nên một không khí lễ hội tưng bừng, người dân làng được tận hưởng không khi vui vẻ, đoàn kết trong bản, làng thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người Dao.