Ngôn ngữ hội họa trên mặt nạ tuồng dân gian

Chủ nhật, 10/03/2024 14:08
(ĐCSVN) - Nghệ thuật hóa trang mặt nạ tuồng là yếu tố cốt lõi giúp lan tỏa sức sống của tuồng dân gian Việt Nam. Mỗi mặt nạ tuồng là một tác phẩm mỹ thuật sống động, ẩn chứa và phô diễn những góc nhìn văn hóa đa chiều, qua ngôn ngữ của nghệ thuật hội họa dân gian.

Tuồng (hát Bội) xuất hiện vào thế kỷ thứ XII đời nhà Trần một loại hình sân khấu cung đình dành cho cung vua, phủ chúa. Môn nghệ thuật dân gian này phát triển cực thịnh ở miền Trung thời vua Tự Đức (1848 - 1883). Ở thời kỳ cực thịnh, trong các lễ hội lớn ở các làng, xã nước ta hầu như đều diễn tuồng. Những đêm hát tuồng ở sân đình, từ quan viên, chức sắc cho đến dân chúng không ai không đắm mình thưởng thức bộ môn nghệ thuật độc đáo của dân tộc vang lên trong tiếng trống chầu rộn rã.

Hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử dân tộc, loại hình nghệ thuật lâu đời này là di sản văn hoá dân gian quý của đất nước. Trong nghệ thuật tuồng, người nghệ sĩ tuồng ngoài tài năng diễn xuất, hát hay, múa giỏi, còn phải biết tự hóa trang gương mặt khi lên sân khấu. Nghệ thuật hóa trang trong tuồng Việt Nam độc đáo, tùy theo tính cách của nhân vật hay nội dung vở diễn mà tương ứng với một loại mặt nạ tuồng.

 Mặt nạ hóa trang là một trong những yếu tố cốt lõi làm nên giá trị của nghệ thuật tuồng Việt Nam.
 Các vở tuồng mang âm hưởng hùng tráng, nội dung ngợi ca những tấm gương tận trung báo quốc, xả thân vì đại nghĩa; đấu tranh với cái xấu, cái ác, tôn vinh cái thiện, cái đẹp; tinh thần uống nước nhớ nguồn, lao động cần cù...
 Theo quan điểm các nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, tuồng Việt Nam dùng loại mặt nạ được vẽ trực tiếp lên mặt người diễn, dựa trên các tích tuồng.
 Màu sắc trên mặt nạ tuồng mang đặc trưng văn hóa phương Đông. Màu đỏ tượng trưng cho người thẳng thắn, trí dũng, nghĩa khí, trung liệt. Màu trắng là nhân vật có diện mạo đẹp, thư sinh, nhu mì, trong sáng. Trắng mốc, xám, hồng lợt, vỏ cua là vai nịnh thần, gian thần, bạc bẽo, vong ân bội nghĩa. Xanh da trời thể hiện nhân vật chưa biết tốt, xấu, mưu mô hay xảo quyệt. Màu lục tượng trưng nhân vật không chung thủy…
 Gương mặt của một trung thần.
 Những gương mặt dùng màu sắc trung tính, nhẹ nhàng, dùng cho gương mặt của lão văn, lão tiều, phụ nữ và trẻ em.
 Theo những nghiên cứu văn hóa dân gian, màu sắc theo lối âm dương cũng được các nghệ sĩ dân gian thể hiện. Người mang mặt nạ sắc dương đại diện cho những người chính nhân quân tử, trung nghĩa, hiếu lễ. Những người mang mặt nạ sắc âm (màu lạnh), đại diện cho thế lực hắc ám thù địch, tráo trở…
Kỹ thuật dùng màu đối lập màu đỏ (hỏa) khắc với nhân vật màu đen (thủy) được nghệ nhân dân gian vận dụng trong những vai diễn mang tính chất thù địch, đối lập nhau. 
 Đường nét và màu sắc trong mặt nạ hóa trang được vẽ tinh giản, gợi hình, chắt lọc những nét bản chất nhất để thể hiện ngoại hình, nội tâm nhân vật tuồng. Đồng thời “bố cục đối xứng” một dạng bố cục mỹ thuật được các nghệ sĩ dân gian sử dụng phổ biến khi vẽ mặt nạ tuồng.
 Việt Nam ước tính có khoảng 500 vở tuồng, nổi bật có vở Sơn hậu, Tam nữ đồ vương, Trưng nữ vương, Trần Quốc Toản ra quân, Nguyệt cô hóa cáo, Đào Tam Xuân, Vạn Bản trình tường, Kim Thạch kì duyên…
 Cùng các vở diễn là hàng trăm nhân vật tuồng tham gia diễn xuất những nội dung đa dạng, cho thấy sự phong phú về thể loại, số lượng các nhân vật tuồng trong mảng màu văn hóa dân gian này.
 Gắn kết cùng các giá trị nghệ thuật diễn xướng dân gian, ca, vũ, nhạc, nội dung các tích trò mang các ý nghĩa lịch sử, giá trị nhân văn…Tất cả cùng tổng hòa, hình thành và lưu giữ một di sản văn hóa quý giá của sân khấu dân gian Việt Nam.
N Dương

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực