Cơ cấu lại ngân sách nhà nước mang lại chuyển biến tích cực cho nền kinh tế

Thứ năm, 28/01/2021 13:57
(ĐCSVN) - Thực hiện tốt các định hướng trong Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020 và Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị về cơ cấu lại ngân sách, quản lý nợ công thời gian qua đã mang lại những chuyển biến tích cực cho nền kinh tế.
 Ảnh minh họa (M.P)

Cơ cấu ngân sách giúp phát triển bền vững

Cho đến nay, tất cả các mục tiêu mà Nghị quyết 07 đề ra cho giai đoạn 2016 - 2020 đều đã đạt và vượt mức quy định như: Tổng thu Ngân sách trong cả giai đoạn đạt trên 6,9 triệu tỷ đồng, gấp 1,6 lần giai đoạn trước; Cơ cấu thu ngân sách bền vững nhờ cơ cấu thu ngân sách đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng thu nội địa, nếu như giai đoạn 2011-2015, tỷ lệ thu nội địa bình quân là 68,7% thì đến năm 2020 tỷ trọng thu nội địa đạt 85,5%; Bội chi ngân sách 3,6% GDP, thấp hơn mục tiêu đề ra; Nợ công trên GDP từ gần chạm trần 65% xuống 55,8% vào cuối nhiệm kỳ.
Trong giai đoạn 2016-2020, chính sách động viên NSNN tiếp tục được hoàn thiện theo quy định tại Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội, Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị và định hướng, mục tiêu, lộ trình đề ra trong Chiến lược tài chính đến năm 2020: Mở rộng diện thu; điều tiết hợp lý hơn thu nhập; khuyến khích sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường; giảm nghĩa vụ thu; giảm thuế quan theo lộ trình hội nhập; đơn giản hóa thủ tục; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế, hải quan, quản lý rủi ro; nâng cao ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của người nộp thuế; đẩy mạnh chống thất thu, chuyển giá, buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế, nhất là thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề về chuyển giá, thương mại điện tử, kinh doanh qua mạng; quyết liệt xử lý thu nợ thuế... vừa cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích tích tụ vốn, phát triển sản xuất, kinh doanh, đồng thời động viên hợp lý, kịp thời các nguồn thu vào ngân sách.

Trong giai đoạn này, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; trình Quốc hội thông qua Nghị quyết số 28/2016/QH14 ngày 11/11/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp; tiếp tục giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; triển khai thực hiện có hiệu quả một số chính sách thu mới; ban hành theo thẩm quyền việc gia hạn, miễn, giảm một số khoản thuế, phí, lệ phí và thu ngân sách nhằm hỗ trợ nền kinh tế đối phó với đại dịch COVID-19 năm 2020.

Bên cạnh đó, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành Luật Phí và lệ phí, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội 01 Nghị quyết, ban hành 07 Nghị định và các văn bản hướng dẫn với nhiều quy định mới chuyển từ phí sang giá đối với một số loại hình dịch vụ công, phù hợp với sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo công khai, minh bạch, thúc đẩy xã hội hóa.

Đồng thời, đã trình Quốc hội thông qua Luật Quản lý thuế áp dụng từ ngày 01/7/2020, thống nhất chính sách, công tác quản lý thuế và góp phần hoàn thiện thể chế quản lý thuế.
Thu NSNN chuyển biến tích cực. Cho tới trước khi xảy ra đại dịch COVID-19, các năm 2016-2019, thu đều vượt dự toán, quy mô thu NSNN bình quân đạt khoảng 25,5%GDP. Riêng năm 2020, do tác động nghiêm trọng của đại dịch COVID-19 tới mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội, tăng trưởng kinh tế cả năm đạt khoảng 2,9% (trong khi kế hoạch đề ra là 6,8%), giá dầu thô giảm sâu, cộng với việc thực hiện miễn, giảm, giãn khoảng 130 nghìn tỷ đồng một số khoản thuế, phí, lệ phí để hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh, nên thu NSNN chỉ đạt 98% dự toán.
Tuy nhiên, tính chung cả giai đoạn, tổng thu NSNN giai đoạn 2016-2020 vẫn vượt mục tiêu, đạt trên 6,9 triệu tỷ đồng. Quy mô thu NSNN bình quân đạt khoảng 25,2%GDP (giai đoạn 2011-2015 là 23,6%GDP), vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 25/2016/QH14 của Quốc hội (23,5%GDP) và Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị (20-21%GDP); gấp khoảng 1,6 lần so với giai đoạn 2011-2015.

Tỷ trọng thu nội địa tăng dần, đến năm 2020 dự kiến đạt 85,5% tổng thu NSNN, đạt kế hoạch là 84-85% tại Nghị quyết 25/2016/QH14 của Quốc hội. Tính chung cả giai đoạn 2016-2020, thu nội địa chiếm tỷ trọng khoảng 82% tổng thu NSNN (giai đoạn 2006-2010 và giai đoạn 2011-2015 tương ứng là 59,5% và 68,7%) đã góp phần bù đắp xu hướng giảm thu từ dầu thô và thu từ thuế xuất, nhập khẩu. Tỷ trọng thu dầu thô và thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu bình quân giai đoạn 2016-2020 là 17,6% tổng thu NSNN, giảm mạnh so với các giai đoạn trước (giai đoạn 2006-2010 tỷ trọng thu cân đối xuất nhập khẩu và dầu thô là 38,3%; giai đoạn 2011-2015 là 30%).

Theo phân cấp, thu ngân sách địa phương (NSĐP) có xu hướng tăng, tỷ trọng thu NSĐP trong tổng thu NSNN đạt khoảng 45% giai đoạn 2016-2020 (giai đoạn 2011-2015 là 37,4%), tăng cường khả năng tự chủ cho địa phương. Số địa phương có quy mô thu NSNN trên 10 nghìn tỷ đồng đã tăng gấp đôi, từ 15 địa phương năm 2016 lên 30 địa phương năm 2020; đồng thời, số địa phương có quy mô thu dưới 5 nghìn tỷ giảm hơn một nửa, từ 37 địa phương năm 2016 xuống còn 16 địa phương năm 2020.

Đáng chú ý, công tác phân bổ, sử dụng nguồn lực công đã có nhiều đổi mới về phạm vi, thẩm quyền, phương thức thực hiện, tiêu chuẩn, chế độ, định mức, vấn đề công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình… Chi NSNN được kiểm soát trong phạm vi thu ngân sách và giảm dần mức bội chi NSNN. Tổng chi NSNN 5 năm 2016-2020 ước đạt khoảng 7,6 triệu tỷ đồng, bình quân chiếm gần 28%GDP (giai đoạn 2011-2015 là 29,5%GDP); ưu tiên thực hiện các chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước .

Đã cơ cấu lại một bước chi NSNN, ưu tiên dành nguồn lực tăng chi đầu tư, ngay từ khâu dự toán, tỷ trọng chi ĐTPT đã được bố trí tăng từ mức 25,7% năm 2017 lên mức 26,9% năm 2020. Tổng nguồn NSNN bố trí cho chi ĐTPT trong 5 năm đạt trên 2,2 triệu tỷ đồng, vượt kế hoạch 5 năm đề ra là 2 triệu tỷ đồng. Tỷ trọng chi ĐTPT thực hiện đạt 28-29% tổng chi NSNN (mục tiêu tại Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội là 25-26%). Đây là kết quả tích cực, nhất là trong bối cảnh quy mô chi NSNN so với GDP giảm.

Quản lý cân đối NSNN và nợ công

Trên cơ sơ khung pháp lý, bám sát mục tiêu tại Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội và Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị, Chính phủ đã quản lý, điều hành chặt chẽ bội chi NSNN. Bình quân các năm 2016-2019, bội chi NSNN ở mức 3,5%GDP, trong đó, các năm 2017-2019 bội chi còn 2,95%GDP, giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 là 5,4%GDP.
Riêng đối với năm 2020, dự toán bội chi NSNN là 3,44%GDP, nhưng do tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19, tăng trưởng kinh tế sụt giảm, cộng với việc triển khai các biện pháp miễn, giảm, gia hạn một số khoản thu hỗ trợ nền kinh tế theo Kết luận số 77-KL/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 122/2020/QH14 của Quốc hội, thu NSNN không đạt dự toán, trong khi phải tăng chi để phòng, chống dịch, hỗ trợ người dân có thu nhập bị giảm sâu và đảm bảo an sinh xã hội. Sau khi sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi NSNN năm 2019 chuyển sang, thực hiện các giải pháp tiết kiệm, cắt giảm các nhiệm vụ chi NSNN năm 2020 theo Nghị quyết số 122/2020/QH14 của Quốc hội, yêu cầu các địa phương chủ động sắp xếp các nhiệm vụ chi và sử dụng các nguồn lực theo quy định để xử lý cân đối;... bội chi NSNN năm 2020 đánh giá ở mức 3,9%GDP. Tính chung cả giai đoạn 2016-2020, bội chi NSNN bình quân khoảng 3,6%GDP (mục tiêu đề ra là 3,9% GDP).
Cũng trong giai đoạn này, thể chế Quản lý nợ công được hoàn thiện; trình Quốc hội ban hành Luật quản lý nợ công (sửa đổi) và ban hành theo thẩm quyền hệ thống văn bản hướng dẫn, từng bước điều chỉnh công tác quản lý và giám sát nợ công theo nguyên tắc thị trường, thống nhất, kiểm soát các khoản vay về cho vay lại, cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ; tăng cường công khai, minh bạch; phát triển hệ thống các công cụ nợ như chiến lược nợ công 10 năm, chương trình quản lý nợ công 3 năm, kế hoạch vay trả nợ công 5 năm và hàng năm; phối hợp với các tổ chức tài chính quốc tế trong việc phân tích bền vững nợ, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia... Những điều này đã tạo bước thay đổi quan trọng trong hoàn thiện chính sách quản lý để huy động vốn kịp thời, đầy đủ cho ngân sách nhà nước, hướng đến quản lý nợ công chủ động đảm bảo an toàn, bền vững, tiếp cận với thông lệ tốt của quốc tế; thiết lập tính đồng bộ giữa quản lý nợ công, ngân sách và đầu tư công.
Thực hiện cơ cấu lại theo hướng bền vững, giảm mạnh tỷ lệ nợ công từ mức 63,7%GDP cuối năm 2016 xuống khoảng 55,8%GDP cuối năm 2020, kéo dài kỳ hạn phát hành trái phiếu chính phủ (Năm 2011 kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ bình quân là 4,2 năm; năm 2016 là 8,71 năm; năm 2020 là 13,94 năm); lãi suất huy động tiếp tục giảm (lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ bình quân đã giảm từ khoảng 12% năm 2011 xuống còn 6,49% năm 2016; 2,86% năm 2020).
Tăng chi cho đầu tư phát triển thúc đẩy tăng trưởng
 
Khi làm việc, chỉ đạo ngành tài chính, Thủ tướng đã từng chỉ đạo rất rõ ràng, “tài chính không chỉ là con số thu chi ngân sách Nhà nước, là khư khư giữ tiền, tài chính phải biết huy động, biết sử dụng tiền hiệu quả hơn và làm tiền đẻ ra tiền, các chính sách tài chính như thuế, chi ngân sách... phải tập trung khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, giải phóng năng lực sản xuất, phát huy tiềm năng thế mạnh, tháo gỡ khó khăn vướng mắc, phát triển mạnh mẽ các ngành, lĩnh vực là động lực tăng trưởng của Việt Nam”.
Thời gian qua, bên cạnh thu ngân sách, Bộ Tài chính đang cố gắng làm tốt nhiệm vụ ở chiều ngược lại, đó chính là chi ngân sách.
Có thể nói, cơ cấu chi NSNN đã chuyển hướng tích cực, tăng tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển; qua đó góp phần thu hút thêm đầu tư từ khu vực kinh tế ngoài nhà nước (tổng đầu tư xã hội 5 năm 2016-2020 đạt 33,4% GDP; trong đó, tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng nhanh từ mức 38,9% năm 2016 lên khoảng 45% năm 2020), bảo đảm chi an sinh xã hội.
Nhờ tăng thu tiết kiệm chi nên bội chi ngân sách đã giảm từ mức bình quân 5,4%GDP giai đoạn 2011-2015 xuống mức bình quân 3,6%GDP giai đoạn 2016-2020, nhờ vậy nhu cầu vay nợ cũng giảm hơn so với  thời kỳ trước.
Mặt khác, cùng với các giải pháp quản lý nợ chủ động, kiểm soát chặt chẽ từ khâu huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, nên nợ công đã giảm mạnh. Vào thời điểm hiện tại, nợ công/GDP ở mức 55,8% GDP, nợ Chính phủ ở mức 49,6% GDP, đã tạo dư địa cho chính sách tài khóa, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động.
Chính nhờ có cơ cấu lại ngân sách, tăng thu, quản lý chi chặt chẽ, huy động vốn với kỳ hạn dài (bình quân năm 2020 là 13,9 năm), lãi suất thấp (bình quân năm 2020 là 2,86%/năm), vì vậy chính sách tài khóa đã hỗ trợ tích cực chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà cho rằng, cơ cấu ngân sách có chuyển hướng tích cực như đã nêu trên, đã tạo điều kiện để cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chủ động và bền vững.
Có thể nói, chủ trương của Đảng, Quốc hội là hoàn toàn đúng đắn cùng với việc Chính phủ, Bộ Tài chính đã có bước đi chủ động và tích cực, tạo nền tảng cho giai đoạn tiếp theo.
Thể chế tài chính – ngân sách đã có sự điều chỉnh theo hướng tài chính cho phát triển. Một mặt, tăng được nguồn thu cho ngân sách, chi tiêu hiệu quả hơn; mặt khác, cũng nuôi dưỡng nguồn thu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích lũy, để tái đầu tư, phát triển sản xuất công nghiệp, cũng như phát triển thương mại, dịch vụ và tổng thể chung là nền kinh tế phát triển bền vững hơn.
“Chính việc nợ công, nợ chính phủ so với GDP giảm, tạo dư địa cho chính sách tài khóa; đồng thời, việc nâng cao tiềm lực tài chính, thực hiện nghĩa vụ trả nợ đầy đủ, đúng hạn làm cho định mức tín nhiệm quốc gia giữ vững với triển vọng ổn định, từ đó tạo cho Việt Nam chúng ta có thế và lực khi hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế”, lãnh đạo Bộ Tài chính nói.
Theo Bộ Tài chính, việc quản lý hiệu quả vay nợ nước ngoài đã đưa Việt Nam từ một nước nghèo phải “co kéo” vay nợ nhiều, đã trở thành một nền kinh tế được các tổ chức quốc tế đánh giá là có mức nợ nước ngoài trong tầm kiểm soát và không nằm trong nhóm bị gánh nặng về nợ.
Việt Nam đã trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp, do đó, Bộ Tài chính cùng các đơn vị liên quan đang tiếp tục nghiên cứu, cập nhật kinh nghiệm quốc tế để hoàn thiện khung khổ chính sách, công cụ quản lý nợ nước ngoài cho phù hợp hơn với tính năng động của công tác vay nợ trong tình hình mới, đồng thời tương thích cho cả các giai đoạn, ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

Với kết quả cơ cấu lại NSNN, nợ công nêu trên, có thể nói, chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 07 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 25 của Quốc hội là hoàn toàn đúng đắn, chúng ta đã có bước đi chủ động và tích cực, tạo nền tảng cho giai đoạn tiếp theo.
Quan điểm về thể chế tài chính – ngân sách đã có sự điều chỉnh theo hướng tài chính cho phát triển. Một mặt, tăng được nguồn thu cho ngân sách, chi tiêu hiệu quả hơn; mặt khác, cũng nuôi dưỡng nguồn thu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích lũy, để tái đầu tư, phát triển sản xuất công nghiệp, cũng như phát triển thương mại, dịch vụ và tổng thể chung là nền kinh tế phát triển bền vững hơn.
Nợ công, nợ chính phủ so với GDP giảm, tạo dư địa cho chính sách tài khóa; đồng thời, việc nâng cao tiềm lực tài chính, thực hiện nghĩa vụ trả nợ đầy đủ, đúng hạn làm cho định mức tín nhiệm quốc gia giữ vững với triển vọng ổn định, từ đó tạo cho Việt Nam chúng ta có thế và lực khi hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế.

M.P

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực