Định hình các giá trị mới đồng bằng sông Cửu Long

Thứ hai, 01/07/2024 18:57
0:00/ 0:00
Giọng nam
  • Giọng nam
(ĐCSVN) - Qua 02 năm thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ về phát triển Vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), mặc dù nền kinh tế phải đối mặt với không ít rủi ro, giá xăng dầu, nguyên vật liệu biến động mạnh; thiên tai, sạt lở diễn biến phức tạp nhưng tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Vùng có nhiều kết quả khả quan.

Chiều 01/7, tại tỉnh Cà Mau, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã chủ trì hội nghị Hội đồng điều phối vùng ĐBSCL lần thứ 4.

 Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái phát biểu tại Hội nghị (Ảnh: MPI)

Phát biểu tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái yêu cầu các địa phương trong vùng cần ưu tiên đẩy nhanh đầu tư các dự án trọng điểm, nhất là những dự án giao thông động lực. Tăng cường sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, nhất là tài nguyên đất, nước. Chủ động thích ứng biến đổi khí hậu, tình hình thiếu nước, xâm nhập mặn. Về kiến nghị của các địa phương, Phó Thủ tướng đề nghị, liên quan nhiệm vụ của bộ, ngành nào thì đơn vị đó xử lý, vượt thẩm quyền thì trình Chính phủ xem xét.

Khẳng định vị thế là trung tâm sản xuất nông nghiệp hàng đầu

Báo cáo tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông thông tin, ngay sau khi Nghị quyết số 13 ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được ban hành, Chính phủ đã có Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 78 trong đó đề ra 14 chỉ tiêu phát triển, 26 nhiệm vụ và 07 dự án kết cấu hạ tầng quan trọng của vùng cần thực hiện đến năm 2030. Đến nay, sau 2 năm thực hiện đã hoàn thành 04/26 nhiệm vụ gồm các nhiệm vụ lớn, trong đó trọng tâm là: phê duyệt quy hoạch tỉnh của 13/13 địa phương trong vùng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; hoàn thành 5 dự án quan trọng kết nối vùng ĐBSCL với vùng Đông Nam Bộ như tuyến cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ; Cầu Mỹ Thuận 2, đang triển khai một số đoạn tuyến như tuyến Châu Đốc (An Giang) - Cần Thơ - Sóc Trăng; Cần Thơ - Cà Mau; tuyến từ nút giao An Bình (Đồng Tháp) - Lộ Tẻ (Cần Thơ); tuyến Lộ Tẻ (Cần Thơ) - Rạch Sỏi (Kiên Giang); cải tạo, nâng cấp đường Hồ Chí Minh (đoạn Rạch Sỏi - Bến Nhất - Gò Quao - Vĩnh Thuận); cầu Rạch Miễu 2, cầu Đại Ngãi; nâng cấp kênh Chợ Gạo giai đoạn II... Đang hoàn thiện thủ tục đầu tư các dự án thuộc Nghị quyết 108 của Chính phủ về vay 2,53 tỷ USD để đầu tư hệ thống đường ven biển và các dự án quan trọng của vùng. Các dự án còn lại đang được các Bộ, ngành và địa phương xây dựng lộ trình nghiên cứu, triển khai thực hiện.

Năm 2023, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Vùng ĐBSCL đạt 6,37%, đứng thứ 2/6 vùng kinh tế, gấp gần 1,3 lần so với bình quân chung cả nước. Tuy nhiên, quy mô kinh tế chỉ chiếm hơn 12% so cả nước; tăng trưởng kinh tế tại một số địa phương trong vùng còn chậm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đạt yêu cầu; hoạt động liên kết vùng chưa hiệu quả; một số thỏa thuận liên kết còn mang tính hình thức; môi trường đầu tư kinh doanh của một số địa phương trong vùng còn chưa thực sự hấp dẫn, chưa thuận lợi để thu hút đầu tư trong và ngoài nước.

Về cơ bản, kinh tế - xã hội từng bước phát triển ổn định theo định hướng bền vững hơn; ĐBSCL đã khẳng định vị thế là trung tâm sản xuất, xuất khẩu lúa gạo, thủy hải sản và cây ăn quả hàng đầu của cả nước, góp phần vào bảo đảm an ninh lương thực; Công tác điều phối, liên kết vùng dần nhịp nhàng, phát huy hiệu quả; Quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững ổn định; Công tác an sinh xã hội được quan tâm đầy đủ.

Thứ trưởng Bộ Kế  hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông báo cáo tại Hội nghị (Ảnh: MPI) 

Thẳng thắn nhìn nhận một số hạn chế, khó khăn trong điều phối, phát triển Vùng, Thứ trưởng Trần Duy Đông chỉ ra, liên kết hợp tác còn hạn chế, chưa đi vào chiều sâu, chưa hình thành được các cụm sản xuất, dịch vụ liên kết ngành; Hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, hạ tầng kinh tế kỹ thuật cấp Vùng chưa phát triển đồng bộ; khả năng thu hút nguồn lực đầu tư thấp, Chất lượng nguồn nhân lực cải thiện chậm, chưa đáp ứng yêu cầu.

Theo Thứ trưởng Đông, nguyên nhân của những khó khăn trên là các nhiệm vụ, giải pháp đề ra có tính dài hạn, thực hiện đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đồng thời, nguồn lực thực hiện chính sách dựa nhiều vào Ngân sách Trung ương trong khi nguồn vốn NSTW còn khó khăn. Quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng và phát huy hiệu quả cần có thời gian và “độ trễ” nhất định.

Từng bước thay đổi tư duy, tăng giá trị và nâng cao hiệu quả sản xuất của Vùng

Một khu vực đồng bằng sông Cửu Long nhìn từ trên cao (Ảnh minh hoạ: MPI)

Liên quan tới việc triển khai thực hiện quy hoạch vùng ĐBSCL, Thứ trưởng Trần Duy Đông cho biết, quy hoạch vùng ĐBSCL đã được ban hành sớm nhất so các vùng trên cả nước; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch thực hiện quy hoạch Vùng tại Quyết định số 816/QĐ-TTg ngày 07/7/2023, đây là cơ sở để các Bộ, ngành, địa phương triển khai các chương trình, dự án quan trọng của Vùng trong thời kỳ quy hoạch. Với tổng số 363 chương trình, dự án của quy hoạch được xác định, đây là những dự án lớn, quan trọng, có tính chất dẫn dắt, có tác dụng lan tỏa sẽ ưu tiên tập trung đầu tư trước, đầu tư dứt điểm và đưa vào sử dụng để làm mồi dẫn thu hút các nguồn lực xã hội, nhất là nguồn vốn ngoài ngân sách; trong đó hạ tầng giao thông được xác định là một trong những khâu đột phá chính cho phát triển kinh tế - xã hội vùng nói chung và thúc đẩy liên kết vùng nói riêng với tổng số 116 dự án,

Quy hoạch vùng đã định hướng từng bước thay đổi tư duy về an ninh lương thực từ việc phát triển nông nghiệp dựa vào cây lúa là chính sang mô hình thủy sản - trái cây - lúa gạo nhằm tăng giá trị và nâng cao hiệu quả sản xuất.

Với việc rà soát cơ chế, chính sách đặc thù Vùng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương, trên cơ sở đề xuất của các địa phương trong vùng rà soát, đề xuất các cơ chế, chính sách dựa trên nguyên tắc phù hợp với cấp có thẩm quyền, các chính sách thí điểm rõ đã phát huy trong thực tiễn, có hiệu lực, hiệu quả, lồng ghép một số địa phương có ý kiến chỉ đạo của Đảng, Chính phủ. Không thí điểm các chính sách đã có kế hoạch ban hành hoặc sửa đổi các VBQPPL trong các năm 2024 – 2025. Theo đó, các nội dung chính sách được rà soát, trong đó, tập trung làm rõ sự cần thiết đề xuất ban hành chính sách mới hoặc tính hiệu quả của các chính sách hiện hành, tập trung bố trí nguồn lực thực hiện để đảm bảo tính nhất quán và hiệu lực, hiệu quả.

Với vai trò là Thường trực Hội đồng điều phối vùng, dịp này, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị, các bộ, địa phương cần tích cực tiếp tục triển khai 14 nhiệm vụ chưa hoàn thành và đề xuất các nhiệm vụ cần thiết cho hoạt động của Hội đồng điều phối vùng trong năm 2024; góp ý cho các cơ chế, chính sách đặc thù của Vùng ĐBSCL; các Bộ và địa phương liên quan đẩy nhanh tiến độ các dự án đã triển khai, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để đảm bảo hoàn thành đúng tiến độ đề ra; khẩn trương hoàn thiện thủ tục đối với các dự án đang chuẩn bị đầu tư, đề xuất các cơ chế, chính sách, gồm cả cơ chế, chính sách đặc thù để sớm triển khai, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

“Về các giải pháp ứng phó với thách thức về sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Mê Công, trong đó có các hoạt động khai thác ở phía thượng nguồn sẽ tác động tới cộng đồng dân cư ở hạ lưu vốn đang phải đối mặt với biến đổi khí hậu, đồng thời làm cạn kiệt mực nước của sông Tiền và sông Hậu, dẫn tới thiếu nước ngọt và nước sinh hoạt trong tương lai đối với ĐBSCL, trong đó mỗi địa phương trong vùng ĐBSCL cần xây dựng các kịch bản, giải pháp chủ động ứng phó cho riêng địa phương mình và đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp có tính liên vùng, liên quốc gia; đồng thời cần ưu tiên nguồn lực từ NSNN để xây dựng đầu tư các dự án bảo vệ vùng nước ngọt, các dự án đảm bảo an ninh nguồn nước, công trình cấp nước” - Thứ trưởng Đông chỉ rõ.

Hân Nguyễn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực