1. Tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn trong bối cảnh hiện nay
Tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn đang trở thành xu thế, là lựa chọn của nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam.
Hiện nay, trên thế giới, phát triển bền vững ngày càng trở thành xu thế bao trùm; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn. Theo Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP), môi trường hiện nay đang bị ô nhiễm trầm trọng. Cùng với sự cạn kiệt tài nguyên, nhu cầu sử dụng tài nguyên của thế giới ngày càng tăng cao, vượt ngoài khả năng cung ứng của trái đất. Nếu không có những biện pháp kịp thời, lượng chất thải sẽ vượt giới hạn chịu tải của môi trường.
Theo đó, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là một trong những biện pháp hữu hiệu giúp giảm lượng tài nguyên cần sử dụng và lượng phế thải tạo ra, góp phần bảo tồn nguồn tài nguyên và giảm tác động gây ô nhiễm môi trường. Đây không chỉ là hoạt động dành riêng cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, mà còn cần sự chung tay của toàn hệ thống và toàn xã hội.
Tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn có mỗi quan hệ hữu cơ, mật thiết với nhau. Theo đó, tăng trưởng xanh là phương thức quan trọng để thực hiện phát triển bền vững, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn giữ cân bằng, hài hòa với môi trường sinh thái. Trong khi đó, kinh tế tuần hoàn không chỉ là tái sử dụng chất thải, xem chất thải là tài nguyên, mà còn là sự kết nối với các hoạt động kinh tế khác, tạo thành các vòng tuần hoàn trong nền kinh tế. Với kinh tế tuần hoàn, dòng vật chất có thể được sử dụng lâu nhất, được khôi phục và tái tạo ra các sản phẩm, vật liệu mới. Tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn còn là phương tiện thu hút dòng vốn đầu tư xanh, đồng thời tạo điều kiện cho các quốc gia đang phát triển tham gia sâu hơn vào chuỗi ngành hàng quốc tế.
|
VSIP, khu công nghiệp kiểu mẫu của cả nước. |
Xu hướng thực hiện tăng trưởng xanh trên thế giới hiện được dẫn dắt, định hướng bởi các cam kết quốc tế mới, những nỗ lực phục hồi của các quốc gia sau đại dịch Covid-19, xu hướng phát triển kinh tế số, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và thương mại mới.
Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc (COP26) đã đưa ra những cam kết mạnh mẽ để ứng phó với sự gia tăng nhiệt độ trên toàn cầu. Theo đó, 147 quốc gia (chiếm gần 90% lượng phát thải khí nhà kính và trên 90% GDP toàn cầu) đã cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ XXI; 103 quốc gia (chiếm 40% tổng lượng phát thải khí metan toàn cầu) đã tham gia cam kết giảm 30% phát thải khí metan toàn cầu vào năm 2030; 141 quốc gia (với hơn 90% diện tích rừng trên thế giới) đã tham gia Tuyên bố Glasgow của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất. Đặc biệt, gần 50 quốc gia đã tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch. Các nền kinh tế lớn cam kết ngừng điện than trong thập kỷ 30, các nước còn lại sẽ ngừng điện than vào thập kỷ 40 của thế kỷ này.
Tiến trình phát triển nền kinh tế xanh đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng và ở mức độ cao hơn, trong đó một phần được thúc đẩy bởi tác động của đại dịch Covid-19. Theo báo cáo của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc, cách tiếp cận xanh đối với phục hồi kinh tế (hay “phục hồi xanh”) - hướng tới mục tiêu kép về tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu đang là lựa chọn hàng đầu được Liên hợp quốc khuyến khích và các vùng lãnh thổ, quốc gia phát triển tiên phong thúc đẩy.
Cùng với các thành tựu đột phá của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là công nghệ thông tin, kinh tế xanh và kinh tế số được xem là hai động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phục hồi xanh. Nền kinh tế xanh mở ra thời kỳ tăng trưởng cao dựa trên đổi mới sáng tạo và sử dụng hiệu quả tài nguyên, tạo cơ hội phát triển mới với quy mô thị trường toàn cầu cho các sản phẩm, dịch vụ xanh, ước tính đạt trên 5 nghìn tỷ đôla Mỹ và có tốc độ tăng trưởng cao hơn các thị trường truyền thống. Theo Tổ chức Lao động quốc tế, đến năm 2030, nền kinh tế xanh được dự báo tạo ra 24 triệu việc làm mới trên toàn cầu nếu các quốc gia có những chính sách phù hợp. Nền kinh tế số với giá trị gia tăng cao, dựa trên tri thức, tạo ra nhu cầu về việc làm mới - bao gồm việc làm xanh, đã và đang hình thành, góp phần thực hiện các mục tiêu của nền kinh tế - tăng trưởng xanh. Quá trình toàn cầu hóa còn thúc đẩy sự giao thoa giữa thương mại hàng hóa, công nghệ và tính bền vững, làm thay đổi bản chất và giá trị hàng hóa, trong đó các sản phẩm xanh sẽ trở thành xu hướng tiêu dùng mới. Đặc biệt, một số cơ chế thương mại mới như “Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon” (CBAM) do châu Âu khởi xướng hiện đã có hiệu lực, nhằm đánh thuế các mặt hàng nhập khẩu có khả năng gây ô nhiễm như thép, nhôm và phân bón có thể trở thành xu hướng mới trong tương lai và được đưa vào các chương trình đàm phán và các Hiệp định thương mại. Các nước tham gia cam kết cần đề cao trách nhiệm xã hội, môi trường để cùng giải quyết các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính, từ đó mở ra nhiều cơ hội phát triển, thúc đẩy đầu tư, thương mại hàng hóa sản phẩm, dịch vụ xanh.
2. Định hướng tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn trong chính sách kinh tế - xã hội của Việt Nam
Là một nền kinh tế đang phát triển, chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững vừa là quan điểm, vừa là mục tiêu xuyên suốt trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta, được thể hiện xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm qua các thời kỳ. Để ngăn chặn biến đổi khí hậu, hướng tới sự phát triển bền vững, tại Hội nghị COP26 (tháng 11/2021), Việt Nam đã đưa ra những cam kết mạnh mẽ về giảm phát thải khí nhà kính với mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050, trong đó chuyển đổi cơ cấu năng lượng sang ưu tiên năng lượng sạch, tái tạo là trọng tâm. Đây là cam kết mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế, thể hiện định hướng và quyết tâm của Việt Nam hướng tới phát triển một nền kinh tế carbon thấp và bền vững.
Để thực hiện được các cam kết và mục tiêu quan trọng đó, phát triển kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, được đề cập và nhấn mạnh trong các chủ trương lớn, quan trọng của Đảng. Cụ thể:
- Về phát triển kinh tế xanh: Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định, phát triển nhanh, bền vững và phát triển kinh tế xanh: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Cùng với đó, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch hành động và văn bản chỉ đạo điều hành về phát triển kinh tế xanh, tăng trưởng bền vững và bảo vệ môi trường, đặc biệt là các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, như: Quyết định số 2139/QĐ-TTg, ngày 05/12/2011 phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; Quyết định số 1474/QĐ-TTg, ngày 05/10/2012 về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn 2012 - 2020 nhằm hiện thực hóa các nhiệm vụ của Chiến lược; Quyết định số 622/QĐ-TTg, ngày 10/5/2017 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; Quyết định số 1670/QĐ-TTg, ngày 31/10/2017 phê duyệt Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 1658/QĐ-TTg, ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050; Quyết định số 882/QĐ-TTg, ngày 22/7/2022 phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030.
- Về phát triển kinh tế tuần hoàn: Phát triển kinh tế tuần hoàn đang là một xu hướng mạnh mẽ bởi chính những lợi ích cả về kinh tế, môi trường và xã hội mà nó được kỳ vọng mang lại như: Tạo ra cơ hội tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và giảm tác động môi trường, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu. Do đó, kinh tế tuần hoàn đang được Việt Nam xem là một ưu tiên trong phát triển đất nước. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đưa ra một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, đó là: “Xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Cùng với đó, hệ thống pháp luật điều chỉnh về hoạt động kinh tế tuần hoàn cũng được ban hành, như: Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, ngày 10/01/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường; Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, ngày 07/01/2022 của Chính phủ về Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon, trong đó có lộ trình mua, bán và chuyển giao tín chỉ carbon, nhằm thực hiện các cam kết quốc tế; Quyết định số 889/QĐ-TTg, ngày 24/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021 - 2030; Quyết định số 687/QĐ-TTg, ngày 07/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam...
Với những chủ trương và chính sách quan trọng được ban hành, việc phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đã đạt được những kết quả bước đầu tích cực, đem đến những thay đổi lớn trong phương thức sản xuất, kinh doanh của các ngành, lĩnh vực tại Việt Nam, trong đó có lĩnh vực sản xuất công nghiệp, mô hình phát triển các khu công nghiệp (KCN). Phát triển các ngành công nghiệp xanh, gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn, sản xuất sạch hơn, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên đang ngày càng trở thành xu hướng chủ đạo. Mục tiêu phát triển công nghiệp xanh, tuần hoàn tập trung vào các mục tiêu chính là hạn chế phát thải khí CO2, hóa chất độc hại từ các KCN, khu chế xuất (KCX) ra môi trường; phát triển và sử dụng các nguồn năng lượng mới (năng lượng tái tạo, năng lượng điện gió, năng lượng điện mặt trời), máy móc kỹ thuật mới thân thiện với môi trường; đồng thời tận dụng phế phẩm, phụ phẩm trong sản xuất công nghiệp.
3. Phát triển khu công nghiệp và mô hình khu công nghiệp sinh thái gắn với tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn
Mô hình khu công nghiệp (KCN) được hình thành và phát triển gắn liền với bối cảnh, yêu cầu của các thời kỳ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của đất nước, là công cụ để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững trên cả 3 trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường.
Mô hình Khu chế xuất (KCX), KCN ở Việt Nam ra đời từ năm 1991 trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng, nhằm thực hiện chủ trương mở cửa, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thu hút nguồn lực từ các thành phần kinh tế để phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Qua các thời kỳ, chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển KCN không ngừng được hoàn thiện, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.
Hiện nay, cả nước có 425 KCN, KCX được thành lập với quỹ đất công nghiệp khoảng 89,2 nghìn ha, trong đó có 299 KCN đã đi vào hoạt động, thu hút lượng vốn đầu tư lớn, bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và các địa phương nói riêng. Trong những năm gần đây, vốn FDI trong KCN, khu kinh tế (KKT) chiếm khoảng 35 - 40% tổng vốn FDI đăng kj tăng thêm của cả nước; tính riêng trong lĩnh vực chế biến, chế tạo, vốn FDI trong KCN, KKT chiếm 70 - 80% tổng vốn đăng ký cả nước. KCN và KKT đã thực sự trở thành các khu vực trọng điểm, thu hút các nguồn vốn đầu tư và dự án lớn trong và ngoài nước (1), là điểm đến của nhiều tập đoàn hàng đầu trên thế giới (Samsung, LG, Canon, Foxconn, Lego, Gortek, Hyosung, Formosa...), đóng vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước, góp phần tạo việc làm, nâng cao sức cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tái cơ cấu nền kinh tế và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.
Tuy nhiên, việc gia tăng các hoạt động sản xuất công nghiệp và hệ thống các KCN tại Việt Nam tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến đời sống của người dân; cộng sinh công nghiệp giữa các doanh nghiệp trong KCN hoặc giữa các KCN còn hạn chế; các dịch vụ trong một số KCN chưa được cung cấp đầy đủ hoặc chất lượng chưa cao; an sinh xã hội trong các KCN có nơi còn chưa được bảo đảm...
Các chính sách phát triển đã tác động trực tiếp đến mô hình, định hướng phát triển KCN ở Việt Nam, đặt ra yêu cầu về chất lượng phát triển KCN ở mức cao hơn theo hướng phát triển bền vững và theo chiều sâu, chú trọng phát triển công nghệ cao, đổi mới mô hình phát triển và gắn với liên kết vùng. Đây cũng là những tiền đề để triển khai thí điểm và xây dựng các văn bản quy định về KCN sinh thái tại Việt Nam.
Việc chuyển đổi các KCN theo hướng bền vững tại Việt Nam không tách rời xu hướng phát triển các KCN trên thế giới. Theo đó, phát triển các mô hình khu dựa trên sự quản lý tiên tiến; chuyển đổi số, ứng dụng khoa học và công nghệ; hợp tác, cộng sinh công nghiệp để sử dụng hiệu quả nguyên vật liệu, năng lượng, tài nguyên, chia sẻ dịch vụ; đẩy mạnh thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ” để cắt giảm tối đa thủ tục hành chính cho doanh nghiệp và nhà đầu tư. Mô hình KCN sinh thái hướng tới phát triển bền vững đã được triển khai từ những năm 1990 và đạt được nhiều kết quả tích cực tại các quốc gia: Đan Mạch, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... Đặc điểm chung của các quốc gia trong áp dụng mô hình này là việc thực hiện các giải pháp sử dụng năng lượng và tài nguyên hiệu quả, sản xuất sạch hơn, gắn với mạng lưới cộng sinh công nghiệp để chuyển đổi các KCN theo mô hình truyền thống sang mô hình KCN sinh thái, từ đó mang lại lợi ích thiết thực về kinh tế, môi trường, xã hội cho các doanh nghiệp và các KCN (2).
Quá trình phát triển khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam
Với sự hỗ trợ của các tổ chức, chuyên gia quốc tế và nỗ lực, quyết tâm của Chính phủ, trong thời gian qua, Việt Nam đã thí điểm chuyển đổi một số KCN từ mô hình truyền thống sang KCN sinh thái, thông qua thúc đẩy sản xuất sạch hơn và liên kết hợp tác trong sản xuất để sử dụng hiệu quả các nguồn lực.
Trong giai đoạn 2015 - 2019, sáng kiến KCN sinh thái được triển khai thí điểm tại 3 địa phương: Ninh Bình, Đà Nẵng, Cần Thơ, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) thực hiện, với nguồn tài trợ từ Tổng cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ (SECO), Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP). Các hoạt động thí điểm thực hiện KCN sinh thái đã đạt được kết quả tích cực:
(1) Phổ biến khái niệm, đặc điểm, lợi ích của mô hình KCN sinh thái tới các bộ, ngành liên quan, các địa phương, các KCN thí điểm và các doanh nghiệp tham gia dự án; (2) Mô hình KCN sinh thái lần đầu tiên được thể chế hóa tại Nghị định số 82/2018/NĐ-CP, ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế, đặt nền móng pháp lý cho việc chuyển đổi các KCN thông thường sang KCN sinh thái và nhân rộng mô hình này; (3) Các doanh nghiệp tham gia đã được hưởng lợi từ các kết quả cụ thể, góp phần nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Sau hơn 4 năm triển khai hỗ trợ chuyển đổi 4 KCN thí điểm (KCN Khánh Phú, KCN Gián Khẩu tại Ninh Bình, KCN Hòa Khánh tại Đà Nẵng và KCN Trà Nóc 1&2 tại Cần Thơ), các giải pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn do dự án đề xuất đã giúp 72 doanh nghiệp tiết kiệm được hơn 22.000 MWh điện, 600.000 m3 nước, 140 TJ nhiên liệu hóa thạch, gần 3.600 tấn hóa chất và chất thải, trên 76 tỷ đồng/năm và huy động trên 207 tỷ đồng từ khu vực tư nhân để thực hiện giải pháp; giảm tiêu thụ năng lượng, nước, hóa chất và chất thải; cắt giảm 32 Kt khí CO2/năm.
Từ năm 2020 đến nay, từ nguồn hỗ trợ tài chính của Chính phủ Thụy Sĩ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục phối hợp với UNIDO nhân rộng mô hình KCN sinh thái tại 3 địa phương là Hải Phòng, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh, thu được kết quả đáng khích lệ. Tính đến hết tháng 5/2024, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và UNIDO đã hỗ trợ được 90 doanh nghiệp với 889 giải pháp hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn (RECP) tại 4 KCN Hiệp Phước (Thành phố Hồ Chí Minh), Amata (Đồng Nai), Đình Vũ (Hải Phòng) và Hòa Khánh (Đà Nẵng), trong đó có 429 giải pháp đã được thực hiện, góp phần tiết kiệm năng lượng, nước, giảm phát thải khí CO2 và đem lại lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp; đề xuất thực hiện 62 cơ hội cộng sinh công nghiệp, cộng sinh công nghiệp - đô thị cho 3 KCN (Hiệp Phước, Amata, Đình Vũ) với 18 trường hợp có tính khả thi cao, góp phần tối ưu hóa việc tái sử dụng chất thải, cụ thể hóa việc thực hiện kinh tế tuần hoàn.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục tham mưu cho Chính phủ hoàn thiện hành lang pháp lý để khuyến khích phát triển mô hình KCN sinh thái tại Nghị định số 35/2022/NĐ-CP, ngày 28/5/2022 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế. Theo đó, Nghị định số 35/2022/NĐ-CP đã kế thừa các quy định tại Nghị định số 82/2018/NĐ-CP, bổ sung, hoàn thiện các quy định về chính sách hỗ trợ và hợp tác phát triển KCN sinh thái; tiêu chí xác định; các ưu đãi; trình tự, thủ tục, hồ sơ đăng ký chứng nhận KCN sinh thái, doanh nghiệp sinh thái; các quy định liên quan đến chứng nhận lại hoặc chấm dứt hiệu lực, thu hồi Giấy chứng nhận KCN sinh thái, doanh nghiệp sinh thái. Đặc biệt, bên cạnh việc hướng dẫn chuyển đổi các KCN sinh thái, Nghị định khuyến khích, định hướng việc quy hoạch và xây dựng mới các KCN sinh thái thông qua quy hoạch xây dựng, thiết kế hợp lý các phân khu chức năng và định hướng thu hút các dự án đầu tư có ngành, nghề tương đồng để hỗ trợ thực hiện cộng sinh công nghiệp và có ưu đãi để khuyến khích phát triển KCN sinh thái mới. Ngoài ra, Nghị định cũng làm rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc định hướng và hỗ trợ triển khai các KCN sinh thái tại địa phương; đơn giản hóa các điều kiện, tiêu chí và thủ tục chứng nhận KCN sinh thái, doanh nghiệp sinh thái; quy định việc thực hiện theo dõi, giám sát, đánh giá hiệu quả thực hiện KCN sinh thái và doanh nghiệp sinh thái trên hệ thống thông tin về KCN, KKT theo định hướng chuyển đổi số. Một trong những điểm mới được đánh giá là tiến bộ của Nghị định số 35/2022/NĐ-CP đó là đã bổ sung các quy định để bảo đảm điều kiện an sinh xã hội cho người lao động làm việc trong KCN. Nghị định yêu cầu các địa phương phải xác định quỹ đất để quy hoạch xây dựng nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động làm việc trong các KCN ngay từ bước quy hoạch phát triển các KCN trên địa bàn; việc phê duyệt quy hoạch hoặc hoàn thành đầu tư xây dựng khu nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động (đối với dự án KCN mở rộng) là điều kiện bắt buộc để được chấp thuận chủ trương đầu tư dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN (hoặc KCN mở rộng); bổ sung quy định về việc xây dựng công trình dịch vụ, tiện ích công cộng, cơ sở lưu trú cho người lao động làm việc trong KCN trên phần đất dịch vụ trong KCN.
Trên cơ sở các kết quả tích cực trong triển khai mô hình KCN sinh thái tại Việt Nam, Chính phủ Thụy Sĩ cam kết tiếp tục cùng UNIDO đồng hành với Việt Nam đẩy mạnh triển khai KCN sinh thái, thực hiện kinh tế tuần hoàn trong giai đoạn 2024 - 2028. Bên cạnh đó, trong các khuôn khổ hợp tác với các tổ chức quốc tế khác, hiện nay Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) hỗ trợ việc xây dựng KCN sinh thái tại Bình Dương; thực hiện các mạng lưới tuần hoàn nước đối với một số KCN tập trung nhiều hoạt động dệt may tại Hưng Yên, Thừa Thiên Huế; thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả năng lượng trong các KCN để xây dựng KCN sinh thái theo mô hình của Hàn Quốc; tiếp tục mở rộng các hoạt động hợp tác với Phái đoàn Liên minh châu Âu (EU), Tổ chức Sáng kiến Thương mại bền vững Việt Nam của Hà Lan (IDH)... để triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp trong các KCN thực hiện kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của chuỗi ngành hàng để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Việc triển khai mạnh mẽ KCN sinh thái trong khuôn khổ các dự án hợp tác quốc tế thời gian qua có ý nghĩa lan tỏa, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững cho nhiều địa phương, doanh nghiệp đầu tư hạ tầng KCN tại Việt Nam, điển hình như KCN Nam Cầu Kiền (Hải Phòng) của Công ty Cổ phần Shinec. Nhà đầu tư đã sử dụng nguồn vốn của mình để tự triển khai mô hình KCN sinh thái. KCN hiện đang phát triển theo hướng KCN sinh thái thông minh, thực hiện tốt các hoạt động kinh tế tuần hoàn.
Có thể nói, KCN sinh thái đang trở thành tiêu chí lựa chọn của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với mục tiêu phát triển bền vững, lợi ích kinh tế song hành trách nhiệm với cộng đồng và xã hội. Nhiều địa phương và nhà đầu tư hạ tầng KCN xác định việc phát triển KCN theo mô hình KCN sinh thái là nhu cầu tất yếu, cấp bách để kiến tạo lợi thế cạnh tranh bền vững. KCN sinh thái sẽ đóng góp đáng kể vào nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu, huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân cho giải pháp công nghiệp xanh, bảo đảm an ninh năng lượng, thể hiện quyết tâm chính trị của Chính phủ trong việc thực hiện các cam kết phát triển bền vững.
Định hướng phát triển khu công nghiệp trong thời gian tới gắn với phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn
Thế giới đang trong quá trình điều chỉnh hết sức mạnh mẽ, làm thay đổi trật tự và cấu trúc về thương mại, đầu tư. Các nhân tố tác động mạnh tới Việt Nam được xác định bao gồm: (i) Xoay trục địa chính trị trong chiến lược ngoại giao của các nước lớn; (ii) Xu hướng phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (chuyển đổi số, phát triển xanh, bền vững); (iii) Tái sắp xếp chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, hình thành chuỗi cung ứng mới; (iv) Gia tăng cạnh tranh khốc liệt giữa các quốc gia trong thu hút đầu tư; thiết kế chính sách riêng để thu hút các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ lõi có giá trị gia tăng lớn hoặc nâng cao vị thế quốc gia (điện tử, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghiệp hydrogen xanh, phương tiện điện...); (v) Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và khu vực thông qua các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, tiêu chuẩn cao; đồng thời đã thành công xác lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với các cường quốc hàng đầu thế giới. Đây chính là những yếu tố vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam để phát triển bứt phá và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển bền vững không còn là khẩu hiệu, mà đang thực sự trở thành xu thế tất yếu, là giá trị cốt lõi của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xác định tầm nhìn và định hướng chiến lược kinh doanh. Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững, các KCN trong thời gian tới cần có những giải pháp đột phá, phù hợp với xu thế mới, trong đó tập trung vào các trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiên phong thay đổi hướng phát triển các mô hình KCN mới. Theo đó, tập trung đẩy mạnh phát triển mô hình KCN sinh thái, KCN xanh, trong đó cần quy hoạch hình thành các khu công nghệ và đổi mới sáng tạo, hướng đến xây dựng “Thung lũng Silicon Việt Nam”.
Thứ hai, lấy khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo làm trụ cột cho phát triển trong tương lai. Trong đó, chuyển hướng sang chủ động kiến tạo, tạo môi trường cho các doanh nghiệp công nghệ, startup được hình thành và phát triển. Dành quỹ đất và nguồn lực cho các dự án R&D, nghiên cứu thử nghiệm sản phẩm mới, ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, tiết kiệm năng lượng...
Thứ ba, thu hút đầu tư có chọn lọc, chủ động tiếp xúc, bám sát các tập đoàn hàng đầu thế giới trong các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam ưu tiên.
Thứ tư, phát triển sản xuất, công nghiệp, dịch vụ trên nguyên tắc tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai, gắn với liên kết phát triển vùng, hình thành cụm liên kết ngành; hạn chế phát triển KCN trên đất nông nghiệp có năng suất ổn định (đặc biệt là đất trồng lúa) và tại các khu vực khó có khả năng đền bù, giải phóng mặt bằng.
Thứ năm, phát triển kinh tế phải đi liền với phát triển hạ tầng xã hội; bảo đảm bền vững về môi trường; quy hoạch và triển khai các giải pháp xây dựng nhà ở và các công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trong KCN, KKT; hoàn thiện hệ sinh thái công nghiệp - đô thị - dịch vụ, bảo đảm cho việc phát triển bền vững các KCN, KKT.
Thứ sáu, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, xây dựng nhà máy xử lý nước thải; cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, thực thi hiệu quả thủ tục một cửa tại ban quản lý KCN, KKT, kịp thời hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư tại các KCN, KKT.
Thứ bảy, nâng cao năng lực cạnh tranh và sức hấp dẫn của các KCN, KKT các địa phương thông qua: (i) cải thiện cơ sở hạ tầng (giao thông, cảng biển, cảng hàng không, dịch vụ logistic); (ii) tăng cường nghiên cứu khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Nhìn lại chặng đường phát triển của đất nước sau gần 40 năm đổi mới, có thể khẳng định mô hình KCN, KKT đã, đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò, vị trí ngày càng quan trọng, là động lực thúc đẩy tăng trưởng và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; là kênh thu hút các nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm sự phát triển bền vững. Trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các địa phương, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các KCN, KKT trên cả nước phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả, đặc biệt đối với các mô hình KCN mới như KCN sinh thái. Trong đó, việc nghiên cứu, xây dựng Luật KCN, KKT để bảo đảm tăng cường tính cạnh tranh quốc tế của các mô hình KCN, KKT là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện trong thời gian tới./.
--------------
Chú thích
1. Tính đến hết năm 2023, các KCN đã thu hút hơn 11,2 nghìn dự án đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 252 tỷ đồng và khoảng 10,6 nghìn dự án đầu tư trong nước, với tổng vốn đầu tư đăng ký là 2,67 triệu tỷ đồng, tạo việc làm cho 4,18 triệu lao động trực tiếp.
2. Tại Đan Mạch, KCN sinh thái Kalundborg với 20 mạng lưới cộng sinh công nghiệp thực hiện từ năm 1982 đến năm 1997, giúp tiết kiệm 19.000 tấn dầu, 30.000 tấn than, 600.000 m3 nước và 130.000 tấn CO2. Năm 2001, các doanh nghiệp trong KCN đã tiết kiệm 160 triệu USD khi tham gia mạng lưới cộng sinh.
Tại Hàn Quốc, Chương trình KCN sinh thái được thực hiện từ năm 2005 đến năm 2019, được chia làm 3 giai đoạn và kết thúc sớm hơn dự kiến. Tính đến năm 2017, có 105 KCN thông thường đã hoàn thành chuyển đổi sang KCN sinh thái. Trong giai đoạn này, 1,47 KCN tạo ra các lợi ích tương đương 189 triệu USD, trong đó 97 triệu USD thu được từ việc giảm chi phí và 92 triệu USD từ doanh thu; giảm lượng chất thải tương đương 477.633 tấn, nước thải 110.032 tấn, năng lượng 176.781 TOE, và các khí nhà kính 668.198 tấn CO2-eq, chiếm 0,83% chất thải, 0,008% nước thải và 0,14% năng lượng tiêu thụ trong năm 2012.
Tại Trung Quốc, mô hình KCN sinh thái được triển khai từ cuối những năm 1990, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện kinh tế tuần hoàn do Cục Bảo vệ Môi trường đề xuất năm 2001. Năm 2012, Chính phủ Trung Quốc đã hỗ trợ 745 triệu RMB cho 22 KCN để thực hiện các giải pháp chuyển đổi, chiếm khoảng 8,5% tổng chi phí đầu tư của mỗi dự án chuyển đổi sang KCN sinh thái. Theo đánh giá của Chính phủ Trung Quốc, các KCN sinh thái đều có cơ sở hạ tầng tốt, đạt hiệu quả trong thực hiện sản xuất sạch hơn và khung kinh tế tuần hoàn với nhiều mạng lưới cộng sinh. Các KCN sinh thái có năng suất lao động cao, đạt nhiều lợi ích kinh tế nhờ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đạt hiệu quả cao trong sử dụng năng lượng và giảm thiểu phát thải.