Chất lượng nguồn nhân lực được coi là yếu tố then chốt trong quá trình phát triển kinh tế xanh, đòi hỏi sự chuẩn bị toàn diện từ đào tạo, nâng cao kỹ năng đến thay đổi nhận thức. Để phát triển kinh tế xanh thành công, các quốc gia nói chung, Việt Nam nói riêng cần xây dựng một đội ngũ lao động có khả năng thích ứng tốt với các yêu cầu mới và có kiến thức sâu rộng về các lĩnh vực liên quan đến môi trường và bền vững.
Vị trí, vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế
C. Mác cho rằng, con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, khoa học - công nghệ,... có mối quan hệ nhân - quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực khác và quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật là không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý; còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố hữu hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác; trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Thực tế cũng chứng minh rằng, một quốc gia có thể không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không mấy thuận lợi, nhưng kinh tế có thể tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững nếu quốc gia đó biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn, biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó; với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đội ngũ trí thức xứng tầm; lực lượng công nhân kỹ thuật tay nghề cao, đông đảo và có các doanh nhân tài ba.
|
Ảnh minh họa: TL |
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và thúc đẩy phát triển kinh tế xanh hiện nay, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao đều phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, tức là những người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư và một môi trường chính trị - xã hội ổn định.
Có thể khái quát vị trí, vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế nói chung, kinh tế xanh nói riêng như sau:
Một là, nguồn nhân lực là người phát hiện, sáng tạo ra các nguồn lực phát triển: con người là chủ thể phát hiện, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên để tạo nên tăng trưởng kinh tế; nguồn lực vốn là kết quả lao động và tích lũy của con người mà có; nguồn lực khoa học – công nghệ cũng do con người sáng tạo ra. So với các nguồn lực tăng trưởng kinh tế khác, nguồn nhân lực với kết tinh của trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật là không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý; còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố hữu hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả.
Hai là, nguồn nhân lực là nhân tố quyết định việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Một đất nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong muốn.
Chất lượng nguồn lực lao động là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng 3 nguồn lực còn lại (gồm nguồn lực vốn, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên). Nói đến nguồn lực lao động là nói đến tổng thể nguồn lực lao động của một quốc gia, trong đó nguồn nhân lực trình độ cao là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nguồn lực lao động tinh túy nhất, có chất lượng nhất và có vai trò quyết định sự thành công đối với phát triển kinh tế của một đất nước.
Ba là, nguồn nhân lực là động lực của phát triển kinh tế. Nguồn lực lao động vừa có nhu cầu tự thân để phát triển với yêu cầu ngày càng cao, phong phú và chủ thể sáng tạo công nghệ, điều chỉnh cơ cấu kinh tế để thỏa mãn các nhu cầu xã hội. Vai trò này được thể hiện tập trung qua mức tiền công của người lao động. Khi tiền công của người lao động tăng có nghĩa chi phí sản xuất tăng, phản ánh khả năng sản xuất tăng lên. Đồng thời khi mức tiền công tăng làm cho thu nhập có thể sử dụng của người lao động cũng tăng, do đó khả năng chi tiêu của người tiêu dùng tăng. Đây cũng được coi như một cách để tạo động lực cho người lao động. Ở các nước đang phát triển, mức tiền công của người lao động nói chung là thấp, do đó ở những nước này lao động chưa phải là động lực mạnh cho sự phát triển. Để nâng cao vai trò của người lao động trưởng phát triển kinh tế cần thiết có các chính sách nhằm giảm bớt lượng cung lao động, đồng thời tạo ra các nguồn lực khác một cách đồng bộ.
Bốn là, nguồn nhân lực luôn đóng vai trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế trong các nguồn lực để phát triển kinh tế đất nước. Nguồn nhân lực quyết định quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam
Quan điểm của Đảng về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
Qua hơn 35 năm đổi mới, trên cơ sở đánh giá thực tiễn và tổng kết lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: con người và các nguồn lực của con người đóng vai trò quyết định sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhân tố con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế. Nhân lực là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Tinh thần trên được phản ánh trong các bước phát triển về nhận thức, tư duy của Đảng về con người, về phát triển nguồn nhân lực từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII nêu rõ: “Kinh nghiệm vô giá mà chúng ta khái quát được trong lịch sử lâu dài và đầy khắc nghiệt của dân tộc ta là: nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là nguồn lực con người Việt Nam; là sức mạnh nội sinh của chính bản thân dân tộc Việt Nam. Con người Việt Nam là tài sản quý báu nhất của Tổ quốc ta và chế độ xã hội chủ nghĩa chúng ta”[1].
Tại Đại hội XI, Đảng nhấn mạnh quan điểm: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”[2], “là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”[3]. Những quan điểm này đánh dấu sự chuyển hướng từ nhận thức có tính chất lý luận về vị trí, vai trò của nhân tố con người và nguồn nhân lực đến coi phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong 3 khâu đột phá của chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2011 - 2020.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao, thông qua phương hướng, nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực trong thời gian tới, đòi hỏi cần phải: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất, kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành”[4].
Báo cáo Chính trị Đại hội XIII bổ sung ưu tiên “Phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở chú trọng nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam
Nguồn nhân lực của Việt Nam đang ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của dân số. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2022, quy mô dân số cả nước ước đạt 100 triệu người, trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm là 50,6 triệu người, tăng 1,5 triệu người so với năm 2021. Trung bình mỗi năm có khoảng 500 nghìn người gia nhập lực lượng lao động. Riêng trong năm 2020 và 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước giảm 1,2 triệu người so với năm 2019, chủ yếu là do sự sụt giảm ở khu vực nông thôn (giảm hơn 1,1 triệu người). Trong số lực lượng lao động năm 2020, có 53,4 triệu người đang làm việc, trên 1 triệu người thất nghiệp; khoảng 17,3 triệu người (số liệu năm 2018 và 2019) không hoạt động kinh tế vì các lý do khác nhau.
Không chỉ gia tăng về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam cũng có những cải thiện rõ rệt. Theo Ngân hàng Thế giới (WB, 2020), trong 10 năm (năm 2010 đến năm 2020) chỉ số vốn nhân lực (HCI) của Việt Nam đã tăng từ 0,66 lên 0,69. Bước sang năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam trong nhóm phát triển khá đứng thứ 115/191 quốc gia. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để nguồn nhân lực của Việt Nam có khả năng chuyển đổi, ứng dụng công nghệ số để xây dựng kỹ thuật số trong thời kỳ cách mạng 4.0. Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tiếp tục cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập, mặc dù mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục và bảo trợ xã hội thấp hơn. Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có điểm cao nhất về chỉ số vốn nhân lực. Điều này phản ánh những thành tựu lớn trong giáo dục phổ thông và y tế trong những năm qua. Do đó, trong giai đoạn 2000- 2017, phát triển vốn nhân lực đóng góp khoảng 1/3 tăng trưởng GDP bình quân đầu người.
Nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đã có sự cải thiện rõ rệt. Số lao động có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công việc được giao đang ngày càng tăng lên. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê (2020), tỷ trọng người lao động có trình độ sơ cấp chiếm 4,7%; trung cấp chiếm 4,3%; cao đẳng 3,7%; đại học trở lên 10,9%. Tỷ trọng này ở các trình độ cao đẳng và đại học ngày càng có xu hướng gia tăng, từ 8,7% trình độ đại học năm 2016 lên 10,9% năm 2020. Bước sang năm 2021, lao động đã qua đào tạo từ trình độ “Sơ cấp” trở lên là 26,1%, tăng 0,8 điểm phần trăm so với năm trước. Tất cả những yếu tố này đã góp phần nâng cao năng suất lao động của Việt Nam trong thời gian qua. Theo báo cáo chỉ số phát triển con người Việt Nam (2021), năng suất lao động của toàn nền kinh tế Việt Nam theo giá hiện hành ước đạt 171,3 triệu đồng/lao động (tương đương 7.398 USD/lao động, tăng 538 USD so với năm 2020). Theo giá so sánh, năng suất lao động trong năm 2021 tăng 4,71% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2021 đạt 26,1%, cao hơn mức 25,3% của năm 2020).
Tuy nhiên, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở Việt Nam còn khá lớn, chất lượng đào tạo thấp, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý. Hiện nay, nước ta đang thiếu công nhân có kỹ năng lao động cao, thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực, nhưng thừa lao động thủ công, không qua đào tạo. Trong khi đó, cạnh tranh quốc tế bằng lao động phổ thông, giá nhân công rẻ không mang lại hiệu quả cao. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao đang trở thành trở ngại lớn cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Theo đó, khi so sánh với các quốc gia trong khu vực, năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở mức tương đối thấp và chênh lệch tuyệt đối tiếp tục xu hướng gia tăng. Năng suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia; gần tương đồng với Myanmar và Lào; thấp hơn Ấn Độ, Philippines, Indonesia, Trung Quốc, Thái Lan và thấp hơn rất nhiều so với Malaysia cũng như Singapore. Bên cạnh đó, sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào đóng góp của yếu tố vốn và lao động với mức đóng góp bình quân giai đoạn 2016- 2020 là 54,28%, trong đó đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này cao hơn đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Chất lượng nguồn nhân lực thấp là một trong những thách thức rất lớn của Việt Nam trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư.
Một số định hướng và giải pháp
Một là, thực hiện có hiệu quả Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030 theo Quyết định số 176/QĐ-TTg, ngày 5/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, đặt mục tiêu chỉ số lao động có kiến thức chuyên môn trong chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 60 nước đứng đầu vào năm 2025 và 55 nước đứng đầu vào năm 2030; tỷ lệ lao động có các kỹ năng công nghệ thông tin đạt 90% vào năm 2030. Để thực hiện được điều này và cũng là giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục - đào tạo, xác định đúng đắn chiến lược phát triển nguồn nhân lực tầm nhìn đến năm 2050.
Hai là, hoàn thiện hệ thống chính sách xây dựng, phát triển và quản lý nguồn nhân lực cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xanh trong điều kiện mới ở nước ta hiện nay.
(i) Xây dựng một nguồn nhân lực với cơ cấu và số lượng hợp lý qua từng giai đoạn phát triển của đất nước;
(ii) Đào tạo và nâng cao kỹ năng số cho người lao động, bao gồm phân tích dữ liệu, sử dụng các phần mềm quản lý môi trường và công cụ số liên quan đến kinh tế xanh;
(iii) Xây dựng, phát triển và phát huy có hiệu quả nguồn nhân lực tại chỗ để phát triển các nội dung kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương, ngành và lĩnh vực..;
(iv) Thu hút tiềm năng về nguồn nhân lực (đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao) ở ngoài nước tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước;
Ba là, tập trung các giải pháp về giáo dục và đào tạo để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, như:
(i) Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ; triển khai các hoạt động đào tạo kiến thức, kỹ năng về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các trường phổ thông;
(ii) Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và các trường, trung tâm dạy nghề trên phạm vi cả nước. Trước mắt cần rà soát và tiến hành quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề trong cả nước, đặc biệt là hệ thống dạy nghề tại các địa phương vốn thu hút một lượng lớn lao động của cả nước; xây dựng và đầu tư nâng cấp để tạo ra hệ thống các trường dạy nghề chất lượng cao. Chú trọng nâng cao trình độ của giáo viên và trang thiết bị dạy nghề đáp ứng sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng phát triển của thế giới và phù hợp với yêu cầu thị trường lao động trong nước;
(iii) Xây dựng chiến lược giáo dục và đào tạo phục vụ trực tiếp cho sự phát triển của nền kinh tế hiện đại. Cung cấp các chương trình đào tạo chất lượng cao từ cấp đại học đến sau đại học về các lĩnh vực liên quan đến khoa học môi trường, công nghệ năng lượng tái tạo, quản lý tài nguyên thiên nhiên và kinh tế xanh.
(iv) Tổ chức các khóa đào tạo nghề cho lao động trong các ngành công nghiệp truyền thống để họ có thể chuyển đổi sang các ngành công nghiệp xanh.
Bốn là, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp và người lao động trong việc tự đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác phát triển nguồn nhân lực theo hướng Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động học nghề thông qua định hướng thông tin, cơ chế, chính sách. Người lao động chủ động nắm bắt thông tin, tự đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp, tiếp cận thị trường lao động, tìm kiếm việc làm. Về phía các doanh nghiệp, do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, sẽ có những ngành nghề phải cập nhật lại kiến thức trong một thời gian ngắn, trong khi người lao động không thể quay trở lại trường để học, vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp cũng phải tự tổ chức các hoạt động giảng dạy, cập nhật kiến thức ngay tại đơn vị. Sự tham gia của doanh nghiệp với vai trò của người sử dụng lao động trong đào tạo không chỉ góp phần giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước về đầu tư cơ sở vật chất, mà còn giúp định hướng, đào tạo những lao động có kỹ năng phù hợp với nhu cầu thị trường, nhất là đáp ứng những yêu cầu về thay đổi trong sản xuất của công nghiệp 4.0.
Năm là, khuyến khích phát triển thị trường lao động. Đẩy nhanh tốc độ phát triển thị trường lao động, giới thiệu việc làm. Khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển thị trường lao động từ khâu tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp, giới thiệu việc làm trong nước và xuất khẩu... tạo được sự liên kết chặt chẽ giữa kết quả phát triển nguồn nhân lực với sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
Nói tóm lại, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xanh. Việc đầu tư vào giáo dục, đào tạo và nâng cao kỹ năng cho người lao động sẽ giúp xây dựng một đội ngũ nhân lực mạnh mẽ, có khả năng giải quyết các thách thức môi trường và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Các biện pháp như đào tạo chuyên sâu, phát triển kỹ năng ứng dụng công nghệ, chính sách hỗ trợ và hợp tác quốc tế là những yếu tố then chốt để đạt được thành công trong lộ trình này./.
Chú thích
[1] Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 93
[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 41.
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 130
[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021.
5. Ngân hàng Thế giới -WB (2020), Báo cáo công bố Chỉ số vốn nhân lực (Human Capital Index-HCI), truy cập từ https://www.worldbank.org/vi/ news/press-release/2020/09/16/pandemic-threatens-human-capital-gainsof-the-past-decade-new-report-says.
6. Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 176/QĐ-TTg, ngày 5/02/2021 ban hành Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động.
7. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 146/QĐ-TTg, ngày 28/01/2022 phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
8. Tổng cục Thống kê (2020-2023), Niên giám Thống kê các năm, từ năm 2019 đến năm 2022, Nxb Thống kê.