Ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự

Thứ hai, 12/01/2015 14:30

(ĐCSVN) - Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) đang được lấy ý kiến rộng rãi nhân dân với nhiều nội dung đổi mới cơ bản cả về phạm vi điều chỉnh, chủ thể, quyền sở hữu, tài sản, giao dịch dân sự...

Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, mục tiêu sửa đổi Bộ luật Dân sự (BLDS) lần này là xây dựng BLDS thực sự trở thành luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và tự chịu trách nhiệm giữa các bên tham gia. Đồng thời ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, ổn định môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế-xã hội sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành.

Một trong những quan điểm chỉ đạo đáng chú ý là xây dựng Dự thảo BLDS sửa đổi thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, có tính khái quát, dự báo và khả thi để bảo đảm sức sống, tính ổn định, kéo dài hàng thập niên của Bộ luật này.

Căn cứ vào mục tiêu, quan điểm xây dựng Dự án BLDS sửa đổi, Bộ trưởng Hà Hùng Cường cho biết, phạm vi sửa đổi, bổ sung BLDS lần này được xác định là cơ bản và toàn diện.

Trên cơ sở phạm vi sửa đổi như vậy, Dự thảo BLDS sửa đổi có tổng số 712 điều, được bố cục thành 6 phần, 26 chương. So với BLDS năm 2005, Dự thảo BLDS sửa đổi giữ nguyên 265 điều, sửa đổi 298 điều, bổ sung 176 điều, bãi bỏ 147 điều.

Để thể hiện rõ hơn vị trí của Bộ luật dân sự với tư cách là luật chung, luật nền của hệ thống pháp luật dân sự, dự thảo Bộ luật quy định, phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự bao gồm các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ.

Nhằm tạo cơ chế pháp lý đầy đủ cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, phát huy được vị trí, vai trò của Bộ luật dân sự, bảo đảm sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật dân sự và đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế và trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành, dự thảo Bộ luật dân sự quy định về việc áp dụng pháp luật dân sự, theo hướng: Bộ luật dân sự được xác định là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự; các luật khác điều chỉnh quan hệ trong các lĩnh vực dân sự cụ thể không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự; trường hợp trong các luật này không có quy định thì quy định của Bộ luật này được áp dụng;

Về xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự (Điều 14-Điều 22), thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, quy định của Hiến pháp năm 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền dân sự, dự thảo Bộ luật bổ sung các nguyên tắc chung về xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự.

Theo đó, cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình nhưng không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và không được vượt quá giới hạn thực hiện quyền dân sự được quy định tại Bộ luật này;

Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự để gây thiệt hại cho người khác; để vi phạm các nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của mình theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; để hạn chế cạnh tranh hoặc để thực hiện mục đích khác trái pháp luật;

Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân. Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài. Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực hiện trong những trường hợp luật định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án. Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định về áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và lẽ công bằng được áp dụng để xem xét, giải quyết.

Về chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự (Điều 23-Điều 119), Dự thảo Bộ luật quy định cụ thể về địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân, việc tham gia quan hệ dân sự của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương, hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.

Cụ thể, về cá nhân, dự thảo Bộ luật đã bổ sung nhiều cơ chế pháp lý mới, hợp lý để bảo vệ tốt hơn quyền của những người yếu thế về năng lực hành vi dân sự, đặc biệt là chế độ giám hộ đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của mình.

Về quyền nhân thân, bên cạnh việc quy định các quyền nhân thân cơ bản nhất của cá nhân thì dự thảo Bộ luật bổ sung nguyên tắc: Ngoài các quyền nhân thân được quy định tại Bộ luật dân sự, các quyền con người, quyền nhân thân khác về dân sự đều được Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật;

Về pháp nhân, để cụ thể hóa nội dung, tinh thần của Hiến pháp về quyền lập hội, quyền tự do kinh doanh, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng… và để góp phần “hiện thực hóa” địa vị pháp lý của chủ thể này trong các quan hệ dân sự, dự thảo Bộ luật quy định mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác. Pháp nhân phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; việc đăng ký pháp nhân phải được công bố công khai.

Về tài sản (Điều 120-Điều 130), để bảo đảm tính bao quát, minh bạch, công khai, huy động và phát huy được hết các nguồn lực vật chất trong xã hội, dự thảo Bộ luật đã bổ sung quy định, theo đó, tài sản bao gồm bất động sản và động sản; tài sản có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác. Bất động sản phải được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và Luật đăng ký tài sản. Các thông tin về tài sản đã đăng ký phải được công khai. Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể là đối tượng trong quan hệ dân sự, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền khác, trong đó, quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ được quy định trong Bộ luật này và pháp luật về sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất được quy định trong Bộ luật này và Luật đất đai.

Về giao dịch dân sự, Dự thảo Bộ luật đã có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến các quy định về giao dịch dân sự theo hướng bảo đảm tốt hơn quyền tự do thể hiện ý chí, sự an toàn pháp lý, sự ổn định của giao dịch, quyền, lợi ích của bên thiện chí, bên ngay tình. Cụ thể như: Giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức nhưng không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác và chủ thể giao dịch đã chuyển giao vật, tiền hoặc đã thực hiện công việc thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực; trường hợp này, theo yêu cầu của một hoặc các bên, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm hoàn tất thủ tục đối với giao dịch đó; Quy định về giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu cũng được sửa đổi để bảo đảm công bằng, phù hợp hơn với quyền, lợi ích của chủ thể xác lập giao dịch; Quyền của người thứ ba ngay tình được bảo vệ triệt để hơn theo nguyên tắc, trong trường hợp đối tượng của giao dịch là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết tài sản là đối tượng của giao dịch là do bị chiếm đoạt bất hợp pháp, ngoài ý chí của chủ sở hữu; việc chuyển giao tài sản thông qua đấu giá hoặc căn cứ theo bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền cũng được bảo vệ...

Về hình thức sở hữu (Điều 206, Điều 219-Điều 242, thể chế hóa các nghị quyết của Đảng và nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và trên cơ sở vận dụng nguyên tắc việc xác định các hình thức sở hữu cần phải dựa vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu, dự thảo Bộ luật quy định: trong Bộ luật dân sự, hình thức sở hữu bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung. Sở hữu toàn dân là sở hữu đối với tài sản công, bao gồm đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý. Sở hữu riêng là sở hữu của một chủ thể, bao gồm cá nhân, pháp nhân. Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với một tài sản.

Về thời hiệu, dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) quy định về thời hiệu hưởng quyền dân sự và thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự. Cá nhân, pháp nhân căn cứ vào thời hiệu để bảo vệ quyền dân sự của mình. Tòa án có thể tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự do việc hết thời hiệu.../.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực