Kiều bào trong mạch nguồn phát triển đất nước

Thứ tư, 08/03/2023 16:58
(ĐCSVN) - Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho kiều bào sự quan tâm đặc biệt. Người luôn coi kiều bào là một phần “máu thịt của quê hương”, là nguồn nước tươi mát trong mạch nguồn phát triển đất nước. Do vậy, quan tâm và phát huy nguồn lực của kiều bào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã đặt nền tảng cho Đảng ta đề ra những nghị quyết, chính sách quan trọng về người Việt Nam ở nước ngoài trong giai đoạn hiện nay.
Bác Hồ với kiều bào Thái Lan. (Ảnh: Tư liệu)

Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận thấy vai trò, nguồn lực quan trọng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Từ năm 1911 đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Người đã tích cực tuyên truyền, vận động, thành lập các cơ sở cách mạng ở Pháp, Trung Quốc, Thái Lan và các nước khác với sự đùm bọc, chở che của bà con ta ở nước ngoài để phục vụ cho cách mạng trong nước. Năm 1919, Người đã thành lập “Nhóm người An Nam yêu nước”, tiền thân của phong trào Việt kiều yêu nước tại Pháp và Hội Người Việt Nam tại Pháp sau này. Cùng với việc gửi bản Yêu sách tám điểm đến Hội nghị Versailles đòi quyền dân tộc tự quyết cho nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã vận động Hội Những người Việt Nam yêu nước ra tờ báo “Việt Nam hồn” và viết một bài văn vần, in thành truyền đơn, cổ động việc ra báo và kêu gọi mọi người tham gia mua báo để giáo dục tinh thần yêu nước cho đồng bào mình trên đất Pháp và để tuyên truyền, cổ động về trong nước. Thông qua hoạt động tích cực, hiệu quả của mình, Nguyễn Ái Quốc đã giác ngộ, cuốn hút kiều bào tham gia phong trào của “Hội Những người Việt Nam yêu nước” tại Pháp, từng bước đưa “Hội Những người Việt Nam yêu nước” trở thành một đoàn thể của Hội Liên hiệp thuộc địa. Qua phong trào của kiều bào, những sách, báo do Nguyễn Ái Quốc biên soạn, in ấn, cũng như tham gia sáng lập và làm chủ bút: “ Việt Nam yêu cầu ca”, báo Le Paria... mang tư tưởng giáo dục tinh thần yêu nước và cách mạng, được truyền về Việt Nam, từng bước góp phần định hướng con đường cứu nước cho nhân dân ta. Những năm sau đó, Nguyễn Ái Quốc thường xuyên viết thư trao đổi tình hình với nhiều người Việt Nam tại Pháp và đề nghị họ giúp đỡ việc cung cấp tài liệu để tập hợp viết sách, báo tuyên truyền, vận động kiều bào.

Trong những năm 1925 - 1927, khi về hoạt động tại Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu, nghiên cứu tính cách của những người Việt Nam ở Quảng Châu từng theo Phan Bội Châu (Tâm Tâm xã...) và chọn ra những người có cùng chí hướng để thành lập “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” (tháng 6/1925) hoạt động chống lại thực dân Pháp tại Đông Dương và tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin. 

Năm 1927, sau khi thành lập “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” và tổ chức một số lớp học huấn luyện cho những thanh niên Việt Nam yêu nước về con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã nghĩ đến việc rời Quảng Châu - Trung Quốc trở về Thái Lan - nơi có nhiều Việt kiều sinh sống để truyền bá cách mạng. Tháng 6 năm 1928, nhận được Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản điều động về nhận công tác ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã từ giã nước Đức và đến Xiêm (Thái Lan) vào tháng 7 với thẻ nhập cảnh mang tên Nguyễn Lai. Ở Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc mang các tên khác nhau (Thầu Chín, Ông Thọ, Nam Sơn) để dễ hoạt động. Trong thời gian này, Người tích cực học tiếng Thái, động viên mọi người cùng học tiếng Thái để có thể hiểu được truyền thống, phong tục tập quán của người Thái, tiện cho việc giao tiếp, sinh hoạt. Ngoài ra, Người còn tổ chức các lớp học tiếng Việt cho trẻ em để các em không quên nguồn gốc của cha ông. Người cũng tham gia các buổi cúng tế của người Việt ở đền Đức thánh Trần (Bản Mạy (làng mới) thuộc tỉnh Nakhon Phanom ở vùng Đông Bắc Thái Lan) và luôn nhắc nhở mọi người về tinh thần yêu nước, ý thức chống giặc ngoại xâm để bảo vệ dân tộc. Nhờ đó, tuy sống trên đất Thái nhưng những người gốc Việt nơi đây luôn đoàn kết, gắn bó khiến Bản Mạy trở thành một cộng đồng dân cư bền chặt. Một hoạt động tích cực của Người trong thời gian ở đây là khuyên mọi người phải biết tôn trọng phong tục, tập quán của người bản địa, đoàn kết và luôn nêu cao tinh thần tương trợ giúp đỡ những người nơi đây. Bởi vậy, về sau có nhiều người Thái đến Bản Mạy sinh sống khiến nơi đây trở thành cộng đồng dân cư chung của hai nước Việt Nam và Thái Lan. Ngoài ra, Thầu Chín đã cùng một vài cán bộ cốt cán đi khắp các tỉnh có Việt kiều sinh sống ở Đông Bắc Thái Lan để tuyên truyền cách mạng. Những năm hoạt động ở Thái Lan, Nguyễn Ái Quốc đã liên lạc với những kiều bào yêu nước đang sống và hoạt động tại đây, từng bước vận động, “thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ" thành đội ngũ cán bộ cách mạng đầu tiên cho phong trào cách mạng Việt Nam. 

Việc chọn Thái Lan của Nguyễn Ái Quốc không chỉ là nhiệm vụ “tuyên truyền cách mạng về trong nước từ phía Tây” mà còn là để làm “bàn đạp” trở về Việt Nam qua đường Lào, bởi nơi đây có hậu thuẫn của hơn một vạn Việt kiều đang làm ăn, sinh sống, đa phần họ là những người Việt Nam yêu nước, đang tạm thời phải lưu lạc bởi sự truy đuổi gắt gao của thực dân Pháp. 

Cuốn Lịch sử Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khẳng định “Khoảng cuối năm 1928, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã cải trang là thợ mộc từ Xiêm đi vào đất Lào, qua thị xã Pác Xê đi lên Savẳnnakhệt tới Xiêng Vang để nắm tình hình và đời sống của nhân dân và sau đó quay trở lại đất Xiêm...” 

Năm 1945, đất nước giành được độc lập, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều dịp kêu gọi, động viên đồng bào ta ở nước ngoài phát huy tinh thần yêu nước, tranh thủ nhân dân sở tại, ủng hộ đất nước. 

Ngay sau khi nước nhà vừa giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi nhiều thư, điện cho kiều bào báo tin nước nhà độc lập, cảm ơn kiều bào đã gửi thư, điện chúc mừng, quyên góp xây dựng đất nước và kêu gọi kiều bào hãy phát huy truyền thống con Lạc cháu Hồng yêu nước, thương nòi, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau ổn định cuộc sống và làm cho thế giới văn minh nghe thấy tiếng nói của Tổ quốc, hãy luôn hướng về Tổ quốc và tỏ ra xứng đáng với những anh em đang chiến đấu anh dũng ở Nam Bộ để bảo vệ cho nền độc lập của nước nhà... 

Đầu năm 1946, trong thư chúc Tết kiều bào, Người đã đánh giá cao tấm lòng của kiều bào tuy ở nơi đất khách quê người, nhưng lòng vẫn yêu mến cố hương Tổ quốc, đồng thời khẳng định: "Tổ quốc và Chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương các đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng. Đó là nhân tâm thiên lý, đó là tình nghĩa một nhà" (1).

Ðặc biệt, trong chuyến thăm nước Pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian thăm hỏi, động viên kiều bào. Cùng với những cuộc gặp gỡ, trao đổi, thỏa thuận với đại diện Chính phủ Pháp về việc binh sĩ Việt Nam ở Pháp muốn trở về Tổ quốc, đã có gần 30 cuộc gặp, trao đổi công việc giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu các giới kiều bào. Trong các cuộc gặp ấy, Người cảm ơn và đánh giá cao việc kiều bào đã ủng hộ Chính phủ, quyên tiền và thuốc men gửi về giúp Tổ quốc, tạo sự quý mến và cảm tình của nhân dân Pháp đối với nước Việt Nam; đồng thời bày tỏ quyết tâm của Chính phủ trong việc bảo vệ nền độc lập, thống nhất cho đất nước.

Kết thúc chuyến thăm nước Pháp, chia tay kiều bào về nước, Người giơ tay vẫy chào, như muốn nói với kiều bào: "Tôi đi nhưng ý nghĩ của tôi bao giờ cũng vẫn gần gũi đồng bào"(2). Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, nhiều trí thức kiều bào đã sẵn sàng từ bỏ cuộc sống sung túc ở nước ngoài về nước tham gia kháng chiến, trực tiếp góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước, như: Giáo sư Viện sĩ Trần Ðại Nghĩa, Giáo sư Bác sĩ Trần Hữu Tước...

Trong những năm vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn "nhớ đến kiều bào ở hải ngoại đã ra sức hy sinh phấn đấu, dù cực khổ bao nhiêu cũng một lòng trung thành với Tổ quốc"(3). Người thường xuyên gửi thư, điện thăm hỏi và động viên kiều bào ở nước ngoài phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau, thi đua học hỏi và giúp nhau tiến bộ, luôn một lòng ủng hộ Tổ quốc, đồng thời mở rộng tình thân thiện giữa nhân dân ta và nhân dân thế giới...

Ðể giúp đỡ kiều bào, Người nhắc nhở các cán bộ làm công tác ngoại giao ở nước ngoài: Từ lời nói đến việc làm, bất kỳ việc to hay nhỏ đều phải "đem tình thân ái của Tổ quốc cho kiều bào, để giúp đỡ họ, để tuyên truyền cho thanh niên và cho cả dân tộc Việt Nam"(4).

Một trong những mong muốn của kiều bào là được trở về quê hương, tham gia xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Ðảng và Chính phủ tạo mọi điều kiện thuận lợi để đón tiếp kiều bào về nước. Ngày 10-1-1960, đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuống tận cảng Hải Phòng để trực tiếp đón chuyến tàu đầu tiên đưa những người con xa xứ trở về đất mẹ, thể hiện tình cảm và sự trân trọng của Người cũng như của Đảng và Chính phủ đối với những người Việt sống xa quê hương bao năm qua. 

Ðể giúp đỡ kiều bào về nước xây đời sống mới, Người chú trọng những vấn đề cụ thể cho tương lai của kiều bào, như việc bố trí nơi ăn, chốn ở, việc sử dụng hợp lý khả năng chuyên môn... và trường học cho con em của kiều bào. Người thường xuyên nhắc nhở các ngành, các cấp chính quyền: "Kiều bào về đến địa phương nào, thì cán bộ và nhân dân ta ở đó cần phải hết lòng giúp đỡ kiều bào đúng như Ðảng và Chính phủ đã chỉ thị"(5). 

Những năm sau đó, Người đã dành nhiều thời gian đến thăm các gia đình kiều bào mới về nước, động viên họ cố gắng vượt qua những khó khăn, trở ngại, nhanh chóng ổn định cuộc sống mới. Người theo dõi sát sao từng bước đi, từng sự cố gắng và mỗi thành tích của kiều bào, kịp thời khen thưởng những gương "người tốt, việc tốt"...

Năm 1969, qua những tài liệu để lại cho thấy, mặc dù phải nén chịu những cơn đau, vượt qua bệnh tật để làm việc, tiếp khách và ký các loại văn bản thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước với một số lượng lớn, nhưng Người vẫn dành tình cảm đặc biệt đối với kiều bào - những người con xa xứ. Người đã hai lần gửi thư cho kiều bào ta ở Cộng hoà Pháp. Bức thư ngày 27/01/1969, Người viết:

"Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn nhiều gian khổ hy sinh, nhân dân ta nhất định sẽ đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, miền Nam nhất định sẽ được giải phóng. Bắc Nam sẽ sum họp một nhà. Mong các cụ và anh chị em cố gắng hơn nữa, luôn luôn đoàn kết chặt chẽ và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của nhân dân Pháp anh em… Tôi cũng mong anh chị em trí thức, sinh viên và công nhân gắng sức học tập nắm vững khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới để sau này về nước góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc ta mau chóng trở thành một nước giàu mạnh" .    

Ngày 13/6/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết một bức thư gửi Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Việt kiều tại Pháp. Người nhấn mạnh: 

“… Từ trước tới nay, kiều bào ta ở Pháp cũng như ở các nước khác tuy xa quê hương vẫn luôn luôn nhớ về Tổ quốc thân yêu và cố gắng góp phần mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. 

Nay thành lập Hội Liên hiệp Việt kiều là một sự kiện rất quan trọng nói lên ý chí của kiều bào ta quyết tăng cường đoàn kết, hưởng ứng đồng bào trong nước trong giai đoạn quyết liệt hiện nay để đánh thắng hoàn toàn đế quốc xâm lược. Tôi tin rằng Hội Liên hiệp Việt kiều sẽ hoạt động tích cực đẩy mạnh cuộc vận động "Việt kiều góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" nâng cao tinh thần đoàn kết thương yêu nhau trong kiều bào và tình hữu nghị với nhân dân Pháp.

Tôi gửi lời thăm hỏi ân cần tới các vị trong Ban Chấp hành Hội liên hiệp Việt kiều, tới tất cả các chi hội và hội viên, tới Hội Liên hiệp Phụ lão, Hội Liên hiệp Công nhân, Hội Liên hiệp Công thương, Hội Liên hiệp Trí thức, Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam và toàn thể kiều bào yêu nước ở Pháp.

Bác Hồ gửi các cháu thiếu nhi nhiều cái hôn thắm thiết.

Chào thân ái và quyết thắng.”

Sự gần gũi, thân mật trong những lần gặp gỡ, sự ân cần, chu đáo trong những lời chỉ bảo, dặn dò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm xúc động lòng người, làm cho kiều bào càng nhận rõ và ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước, luôn gắn bó với dân tộc, yêu nước, đoàn kết, song vẫn hội nhập, thân thiện, vươn lên làm theo lời nhắn nhủ của Bác năm 1946 khi thăm nước Pháp: Mỗi kiều bào phải là một đại sứ nhân dân của Việt Nam, thi đua phấn đấu, cùng nhau góp sức vào sự nghiệp chung của cả dân tộc.

Kế thừa và phát triển tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và thực hiện lời dạy của Bác Hồ: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Con Hồng cháu Lạc phải thương nhau cùng" trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, Ðảng và Nhà nước ta luôn coi kiều bào là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước; đồng thời, mong muốn, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài nêu cao tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, đoàn kết thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh./.
--------------------------
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995, t.4, tr.139-140.
(2) Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, t.3, tr.328.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, H.1995, t.4, tr.416.
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t.5, tr.384.
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập,Sđd, t.10, tr.28.

Peter Hồng, Uỷ viên Trung ương MTTQ Việt Nam,
Phó Chủ tịch thường trực, kiêm Tổng thư ký
Hiệp hội doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Ý kiến bình luận
Họ và tên
Email
Lời bình

/

Xác thực