(ĐCSVN) - Bộ Lao động - Thương binh& Xã hội (LĐ-TB&XH) đang lấy ý kiến về dự thảo Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc.
|
(Ảnh minh họa: TL) |
Đề xuất chế độ thai sản đối với lao động nữ mang thai hộ
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định về việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
Theo đó, Nghị định này quy định cụ thể về chế độ thai sản đối với lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ.
Trong đó đối với lao động nữ mang thai hộ, dự thảo quy định lao động nữ mang thai hộ đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, trong thời gian mang thai được nghỉ việc để đi khám thai theo quy định tại Điều 32 Luật Bảo hiểm xã hội, cụ thể: đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày; trường hợp ở xa cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai.
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản quy định tại khoản này tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.
Khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý thì lao động nữ mang thai hộ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền theo quy định tại Điều 32 Luật Bảo hiểm xã hội, cụ thể thời gian nghỉ việc tối đa được quy định như sau: 10 ngày nếu thai dưới 05 tuần tuổi; 20 ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi; 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi; 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên.
Lao động nữ mang thai hộ khi sinh con mà có đủ điều kiện đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con thì được hưởng các chế độ sau: Trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng lao động nữ mang thai hộ sinh con theo quy định tại Điều 38 Luật Bảo hiểm xã hội.
Nghỉ việc hưởng chế độ thai sản kể từ ngày nghỉ việc trước khi sinh cho đến ngày giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ nhưng không vượt quá thời gian quy định tại khoản 1 Điều 34 của Luật Bảo hiểm xã hội.
Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ hoặc thời điểm con chết mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng của lao động nữ mang thai hộ được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội, thời gian này lao động nữ mang thai hộ và người sử dụng lao động không phải đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật Bảo hiểm xã hội.
Quy định về tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc
Theo dự thảo, chương III (Quỹ Bảo hiểm xã hội) gồm 4 Điều, từ Điều 12 đến Điều 15 quy định về mức đóng và phương thức đóng của người hưởng chế độ phu nhân hoặc phu quân tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; Tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; Tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; và về các hình thức đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội.
Cụ thể, về mức đóng và phương thức đóng của người hưởng chế độ phu nhân hoặc phu quân tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài (Điều 12), Tờ trình về dự thảo nêu rõ, theo quy định hiện hành, mức đóng và phương thức đóng của người hưởng chế độ phu nhân hoặc phu quân tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đang được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ và Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội. Thực tiễn thực hiện bảo hiểm xã hội đối với nhóm đối tượng này thời gian qua không gặp khó khăn, vướng mắc.
Chính vì vậy, dự thảo Nghị định quy định nội dung này trên cơ sở kế thừa quy định tại các văn bản nêu trên; đồng thời bổ sung quy định về mức đóng và phương thức đóng đối với người lao động trước đó chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng đã hưởng bảo hiểm xã hội một lần.
Dự thảo Nghị định cũng quy định chi tiết việc tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo Điều 88 Luật Bảo hiểm xã hội theo hướng: Tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất; Tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà bị tạm giam. Ngoài ra, dự thảo Nghị định cũng bổ sung quy định tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội đối với các trường hợp khác theo khoản 3 Điều 88 Luật Bảo hiểm xã hội là người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng khi tạm thời bị mất việc làm.
Về tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định, dự thảo Nghị định quy định chi tiết tiền lương đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo hướng: Từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 đến ngày 31 tháng 12 năm 2017, tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức lương và phụ cấp lương theo quy định của pháp luật về lao động ghi trên hợp đồng lao động
Từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 trở đi, tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật về lao động ghi trên hợp đồng lao động.
Dự thảo Nghị định được lấy ý kiến từ ngày 20/5-20/7/2015./.