Hợp tác xã nón lá từng thu hút gần 700 hộ gia đình tham gia sản xuất, năm cao nhất có tới hơn 1.000 người sản xuất, sản lượng đạt gần 800 nghìn chiếc nón. Thu nhập từ nghề làm nón lá giúp người dân có cuộc sống khấm khá… Đó là câu chuyện cách đây chừng dăm năm ở làng nghề làm nón lá truyền thống Mão Cầu, xã Hồ Tùng Mậu (Ân Thi, Hưng Yên) khi nghề này đang phát triển mạnh. Hiện nay, nghề truyền thống này đang từng ngày mai một...
Theo các cụ cao niên trong làng, nghề làm nón lá đã tồn tại hơn 70 năm trên mảnh đất thuần nông này. Bí quyết khiến nón lá Mão Cầu bền, đẹp, chắc chính là ở đôi bàn tay khéo léo, tỉ mỉ, cẩn thận trong từng công đoạn của người thợ. Làm nón có nhiều khâu, nhưng khó nhất là khâu quay nón, khâu quyết định độ thẩm mỹ của chiếc nón, đòi hỏi người thợ phải có tay nghề cao, cẩn thận, tỉ mỉ thì nón mới phẳng, khi quay nón người thợ phải khéo léo để không làm hở chúp, lá được xếp tránh bị cộm. Ngoài ra, để làm được chiếc nón đẹp, người thợ phải biết cách chọn lá thật trắng, tẽ lá không được để rách, lá được là thật phẳng, không để ngả màu. Tre, nứa làm vanh được vót thật tròn, đều, khi may tránh làm đứt cước. Điều quan trọng nữa là mũi khâu yêu cầu phải ngắn, lỗ nhỏ thì chiếc nón sẽ tròn, khít, mịn từ mép lá đến đường kim mũi chỉ. Cái tài của người thợ làng Mão Cầu là các múi nối sợi móc khi khâu được dấu kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy đều tăm tắp những mũi khâu...
Đến làng nón lá truyền thống Mão Cầu bây giờ, đi từ đầu cho đến cuối làng chỉ thấy lèo tèo vài thợ chằm, khâu nón, khác hẳn với sự nhộn nhịp, tấp nập cách đây dăm năm. Chị Nguyễn Thị Ngạn, Chủ tịch Hội nông dân xã Hồ Tùng Mậu cho biết: “Toàn xã có trên 1.900 hộ, trong đó 1.600 hộ sản xuất nông nghiệp, nông dân vẫn khâu nón để tăng thêm thu nhập gia đình. Riêng làng nghề Mão Cầu có hơn 3000 nhân khẩu thì có thời điểm hơn 2.000 người làm nón. Nghề làm nón lá vốn phát triển theo hình thức tự phát là chính, có người chọn cách khâu nón rồi ra chợ làng bán cho tư thương, có gia đình chỉ sơ chế lá để phục vụ người trong xã. Những năm gần đây thị trường tiêu thụ ngày càng thu hẹp nên sản lượng của làng nghề nón Mão Cầu giảm dần, người làm ngày càng ít đi và nghề dần mai một.”.
Trong căn nhà nhỏ, bà Phạm Thị Thắm, năm nay đã gần 70 tuổi, mặc dù mắt cũng đã mờ dần nhưng vẫn miệt mài chỉ dạy từng đường kim, mũi chỉ cho con cháu. Bà Thắm tâm sự, như nhiều phụ nữ trong làng, mới chín, mười tuổi bà đã biết chằm nón một cách thành thạo. Dấu vết nghề nón in hằn trên từng ngón tay của người thợ qua những vết kim đã đen màu theo thời gian. Khi nghề làm nón lá thịnh, trong nhà, ngoài cổng, trước cổng đình, cổng chợ, các bà, các chị, các em nhỏ mới chục tuổi đầu thường ngồi quây quần bên nhau khâu nón. Tay làm, miệng nói, những người thợ làm việc trong không khí rôm rả, thân tình, ấm áp. Nón bán chạy nhất vào những tháng hè, còn vào mùa mưa tuy bán chậm hơn nhưng người dân ở đây quanh năm không khi nào hết việc, cứ rời tay cày tay cuốc là họ lại ngồi quây quần bên nhau, vừa trò chuyện vừa đan nón. Những người thợ già như bà muốn gìn giữ nghề nón nên bảo ban cho các cháu nhỏ học. Trước đây, trẻ con trong làng hầu như cứ lên 7 tuổi là đã biết khâu nón, thậm chí biết cầm kim khâu nón trước khi cầm bút học chữ, giờ mà không dạy nữa là coi như mất nghề…
Chị Phạm Thị Hằng, thợ làm nón Mão Cầu cho biết: “Trước kia, nghề khâu nón cho thu nhập cũng khá. Thợ giỏi khâu được 3 cái/ngày, giá 30.000 – 50.000 đồng/cái, riêng nón khâu hoa văn tỉ mỉ thì giá bán hiện nay là 100.000 đồng/cái. Trừ chi phí nguyên vật liệu, lá, nứa, cước và một số phụ kiện, người làm nón lãi khoảng 20.000 đồng/cái, tức là thu được 60.000 đồng/ngày. Nhưng giờ đây, nón làm ra khó bán, thợ giỏi có khâu nhanh cũng khó bán hàng nên thu nhập chẳng đáng là bao so với mức chi tiêu nên người dân bỏ nghề dần”. Chị Hoa, một thợ làm nón của làng cho biết: “Mặc dù là nghề phụ nhưng làm nón mang lại tiền mặt để chi tiêu, trang trải nhiều khoản cho gia đình. Với sức tiêu thụ nón quá ít ỏi như hiện nay, những người thợ chúng tôi đang đứng trước nỗi lo, không sống được với nghề, thất nghiệp và nguy cơ phải chuyển nghề”. Hiện nay đa phần thanh niên học xong phổ thông đều chọn nghề khác để kiếm sống. Làng nón lá càng mất dần sức sống để phát triển nghề… Chị Nguyễn Thị Dẹp ở cùng thôn cho hay: “Gia đình tôi gồm 5 người, thu nhập chỉ trông chờ vào mấy sào ruộng, trước thì mẹ con tranh thủ khâu nón, giờ bán không được nên tôi chuyển sang làm phụ hồ, được 2-3 triệu đồng/tháng đủ trang trải cho các cháu ăn học. Tuy nhiên, không được như nghề làm nón, làm nghề này phải đi xa, không chăm sóc gia đình được…”.
Là một vùng thuần nông, nghề làm nón lá truyền thống Mão Cầu từng tạo việc làm thường xuyên cho nhiều lao động trong làng, đặc biệt là phụ nữ, vừa lo việc đồng áng, quán xuyến tốt việc nhà, lại có nguồn thu nhập hàng ngày. Đó cũng là mong muốn của nhiều người thợ làm nón hiện nay được làm nghề để có thể “ly nông bất ly hương”. Năm 2011, Hội Nông dân huyện Ân Thi đã tổ chức một lớp dạy nghề nón nhưng học xong, học viên cũng không thiết tha với nghề vì sản phẩm không có đầu ra. Hiện nay, trước nguy cơ bị mai một dần, người làm nón ở làng nghề nón lá Mão Cầu mong muốn được học thêm kỹ năng, phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu để có nghề bền vững, để gìn giữ, phát triển nghề làm nón truyền thống ...